Truyện Hay TÌNH NHƯ SƯƠNG KHÓI - Truyện ngắn thời BAO CẤP

Truyện đam mỹ, truyện ma, truyện tình cảm, truyện hàn quốc
Tống Giang

Tống Giang

Thường Dân
Joined
4 April 2019
Bài viết
15
Reaction score
0
Chương 1

Trời nhá nhem tối, các ngôi nhà trong xóm lao động le lói những ánh đèn dầu. Ông Phương mệt nhọc đạp chiếc xích lô về sát cửa nhà, thầy chồng về bà Dần vội nói; Thu mau ra lấy chậu nước cho bố rửa mặt rồi sắp cơm ra đi con. Nghe mẹ gọi, cô bé Thu vội bê chậu nước ra ngoài hè, ông Phương sau khi rửa mặt thì cởi áo và cúi xuống lấy khăn lau qua người cho mát. Dưới ngọn đèn Hoa Kỳ, ba con người bắt đầu bữa cơm tối của mình. Mâm cơm được đặt ngay xuống chiếc chiếu rách rải ngay giữa nhà, nhà nền đất nên vẫn mấp mô. Ngoài bát canh rau dền còn có một đĩa lạc rang mặn, riêng ông Phương có thêm cút rượu và một đĩa đậu phụ rán. Trong lúc hai mẹ con ăn cơm, ông Phương uống rượu và nhấm nháp mấy bìa đậu. Nhìn chồng đã uống đến chén thứ ba, bà Dần vội nói; Thôi để tôi xới bát cơm cho mình ăn nhé, uống vậy cũng đủ rồi. Thu vừa ăn vừa lấm lét nhìn bố như sợ sệt điều gì đó. Ông Phương uống thêm một chén rượu rồi mới bắt đầu ăn cơm, tiếng loa truyền thanh từ xa vọng lại báo tin quân chủ lực của ta đang thắng trận liên tiếp và sẽ giải phóng thành phố Huế trong nay mai. Khi chồng buông bát, bà Dần nhắc con bê mâm bát ra sau nhà để rửa.
Đợi chồng ngồi uống cốc nước xong, bà Dần mới rụt rè nói; Có chuyện này tôi muốn trao đổi nhưng mình phải bình tĩnh nhé. Chuyện gì vậy mình, ông Phương hỏi và bắt đầu có vẻ muốn đi ngủ. Dù sao cả ngày hôm nay ông phải chở gạch vụn cho mấy người mua về xây nhà nên cũng khá mệt rồi. Ông đoán chắc, bà muốn xin cho con bé Thu đi dự liên hoan hay đi chơi cùng mấy đứa bạn. Ngập ngừng hồi lâu bà Dần mới nói nhỏ vì sợ nhà hàng xóm sát vách nghe thấy. Dù sao cả dãy nhà ở đây đều cách nhau bởi bức tường con kiến xây chung. Bà Dần khổ sở trình bày; tôi nhận‎ thấy mấy tháng nay cứ đến kỳ của phụ nữ mà không thấy con Thu giặt và phơi khăn xô như mọi khi. Đoán có sự chẳng lành nên tôi đã tra hỏi, nó sợ ông đánh nên đã van xin tôi nói giúp. Vậy thằng nào đã hủ hóa với nó, ông Phương gằn giọng hỏi và như tỉnh hẳn rượu. Thu đứng nép sau tấm liếp phía sau nhà và chăm chú lắng nghe câu chuyện của bố mẹ.
Bà Dần hạ giọng nói nhỏ cho chồng:
-Thằng Thịnh con nhà ông bà giáoThanh.
Nghe đến đó ông Phương giật mình hỏi lại vợ; Bà có chắc chắn không, thằng bé đó đi Liên Xô từ năm ngoái rồi mà.Tôi hỏi đi hỏi lại nhiều lần rồi, con mình nó kể lại hết. Ông Phương lẩm bẩm; thôi chết rồi, nó bây giờ ở mãi xa vậy biết làm sao bây giờ. Bà Dần rớm nước mắt nói; thôi con dại cái mang, chuyện đã đến nước này sớm muộn gì cũng sẽ ầm ĩ cả xóm, ngày mai tôi đành muối mặt sang nói chuyện với người ta.
Nghe vợ nói vậy ông Phương chỉ nói một câu; Tùy hai mẹ con bà tự giải quyết, thôi coi như tôi không có đứa con hư hỏng mất nết như nó. Nói xong ông Phương đi ra ngoài cửa và leo lên xích lô để ngủ.
Cả gia đình sinh sống trong căn nhà chưa đến 9 mét vuông. Mùa đông hai vợ chồng rải chiếu nằm dưới đất và nhường chiếc phản duy nhất cho con bé Thu, còn mùa hè nóng bức ông Phương ngủ ngay trên chiếc xích lô để ngoài cửa. Chưa đầy 10 phút bà Dần đã thấy tiếng chồng gáy rồi, sợ chồng nằm ngoài bị muỗi đốt, bà Dần đem chiếc màn một ra mặc phía trên cho chồng. Lúc này trong nhà đèn dầu cũng đang le lói vì sắp cạn dầu. bà Dần rải chiếu nằm dưới đất cũng không sao chợp mắt được. Bà biết trước mắt là cả một chặng đường chông gai, riêng việc đối mặt với lời ra tiếng vào của dư luận, rồi việc tổ dân phố họp kiểm điểm, nhà trường thi hành kỉ luật…Chỉ nghĩ đến từng đó thôi cũng khiến trái tim của người mẹ như nghẹn lại.
Nằm trên phản cô bé Thu khóc thổn thức vì thương cha mẹ, tiếng ngáy không đều sau một ngày lao động nặng nhọc của bố, tiếng thở dài xót xa của mẹ khiến cho Thu cảm thấy day dứt và ân hận. Dù nói gì đi nữa, mọi việc cũng đã quá muộn để sửa chữa. Cái thai mà Thu cố giấu đi cũng không thể giấu được nữa, việc nạo phá thai ở tầm này không bệnh viện nào dám thực hiện. Trong đêm khuya tĩnh mịch, Thu lại nhớ đến Thịnh, người mà cô đã trao sự trong trắng của đời con gái cho anh. Không biết giờ này ở bên Liên Xô rộng lớn, anh có nhớ đến những gì mà mình hứa hẹn không. Cả xóm lao động chìm dần vào giấc ngủ, không gian vô cùng tĩnh lặng. Dù đang trong thời kỳ chiến tranh, nhưng kể từ khi người Mỹ rút về nước theo thỏa thuận đã kí tại Paris năm 1973, mọi người không còn phải lo lắng về những trận bom như mấy năm về trước.
---------
Mới gần 6 giờ sáng mà công viên Thống Nhất đã đông nghẹt người đi tập thể dục, từng tốp người thuộc đủ các lứa tuổi đang thong thả đi bộ quanh hồ bảy mẫu. Đám thanh niên trẻ khỏe thì chạy với tốc độ trung bình, ở nhiều khu vực khác lại có nhiều các mẹ đang tập thể dục theo tiếng nhạc phát ra từ chiếc đài cát sét hoặc tiếng hô của huấn luyện viên. Ngồi ở ghế đá ngay gần mép hồ, ông Thịnh lặng lẽ quan sát một nhóm các phụ nữ trung niên đang nhảy theo điệu rumba khá sôi động. Ánh mắt của ông chăm chú quan sát từng động tác của người phụ nữ xấp xỉ 60 nhưng vẫn đẹp và nhanh nhẹn. Khi đồng hồ trên tay ông Thịnh chỉ sang đúng 7 giờ 15 phút , các cụ bà nghỉ tập và tỏa ra các hướng.
Ông Thịnh lập cập mở chiếc bình ủ mang theo từ sáng và rót ra một cốc nước còn ấm. Khi bà Thu, người phụ nữ mà ông Thịnh chăm chú dõi theo, ông đưa cốc nước và nói: Bà uống cốc nấm Linh chi cho ấm, bà Thu đỡ cốc nước và ngồi xuống uống từng ngụm nhỏ, ông Thịnh đưa cho bà chiếc khăn tay mới tinh để lau mồ hôi trên mặt.
Ông Thịnh khẽ hỏi:
-Sáng nay tôi muốn mời bà đi lên phố cổ chơi được không…?
Khẽ lắc đầu bà Thu nói luôn mà không cần suy nghĩ:
-Không được rồi, các cháu tôi đang nghỉ hè nên tôi phải về chăm chúng nó. Thế chuyện kia bà đã nói gì chưa. Bà Thu lắc đầu; Thôi cứ để mọi việc như nó vẫn vậy ông nhé, không để ông Thịnh nói tiếp, bà Thu đứng lên và dắt chiếc xe đạp hướng ra phía cổng công viên. Ông Thịnh nhìn theo cho đến khi không còn thấy bóng của bà Thu, ông đứng dậy bước ra cổng, để bắt taxi về tận bên khu đô thị Ecopark. Ngồi trên xe trở về nhà, ông ngậm ngùi nhớ lại một thời đã qua, ngày đó ông là chàng sinh viên năm thứ Nhất của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, còn bà Thu mới chỉ là cô bé học sinh lớp 10.
Chính ông trước khi sang Liên Xô du học đã chép tặng cô bé Thu bài thơ *“Đây thôn Vĩ Dạ”*của nhà thơ Hàn Mạc Tử vào sổ tay thay lời lưu bút với những câu đầy da diết;
"Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?"​
Vào một tối mùa đông năm 1974, khi chuyến tàu liên vận quốc tế chạy qua cầu Long Biên lên Đồng Đăng rồi qua Trung Quốc để từ đó đoàn du học sinh sang Liên Xô học tập, cuộc đời của đôi bạn trẻ chính thức rẽ sang hai hướng hoàn toàn khác nhau. Đúng 40 năm sau kể từ cuộc chia tay năm nào, họ mới có dịp gặp lại nhau trong một hoàn cảnh khá trớ trêu.
 
Last edited:
Tống Giang

Tống Giang

Thường Dân
Joined
4 April 2019
Bài viết
15
Reaction score
0
Chương 2
Dù cho cả xóm lao động ở khu Văn Chương, cũng như toàn thành phố hân hoan vì bộ đội ta đã giải phóng được thành phố Huế, sau đó vài ngày là giải phóng Đà Nẵng, nhưng mọi người vẫn không ngớt xôn xao bàn tán về chuyện con bé Thu nhà Phương Dần chửa hoang. Nhà nào có con gái lớn cũng lôi con bé Thu ra làm tấm gương để răn dạy con em mình kiểu như; đấy thấy chưa cá không ăn muối cá ươn…..đua đòi cho lắm vào để rồi ễnh bụng ra. Trước những lời nói như xát muối vào tâm can của hàng xóm, ngày ngày ông Phương cũng đạp xích lô ra khỏi nhà từ khi trời còn chưa sáng rõ mặt người, ông về nhà khi tối khuya và người thì say mèm. Thương con nên bà Dần cắn răng chịu đựng mọi lời đàm tiếu của bà con lối xóm, công việc hàng ngày của bà Dần là nhóm lò đun nước sôi để bán cho cư dân. Tuy nhiên dạo gần đây, người ghé mua thì ít, chủ yếu họ hỏi bâng quơ; cháu Thu dạo này tôi không thấy đi học nhỉ..hoặc có người thì bóng gió; chiều lắm sinh hư là đúng rồi. Nhiều lời ra tiếng vào đến mức tổ phục vụ cũng đánh tiếng để bà Dần nghỉ việc. Thế vào chỗ bà Dần là một bà mẹ vừa nhận được giấy báo tử con trai đã hy sinh tại mặt trận phía Nam. Cũng từ đó, hầu như mọi người trong xóm đều tránh tiếp xúc với gia đình ông Phương, bà Dần.
Cô bé Thu cả ngày chỉ quanh quẩn dưới bếp, không dám bước chân đi đâu. Sáng ra Thu dậy sớm nấu cơm cho cả nhà, nhưng không phải lúc nào cũng có sẵn gạo. Ngày trước nếu nhà hết gạo, Thu có thể vác rá sang nhà hàng xóm vay tạm mấy bơ, còn bây giờ mà hết thì cả nhà đành nhịn đói. Trong nhà chỉ có sẵn một vại dưa cà, một lọ mắm tôm và bát muối trắng còn mọi thứ đều ăn đong từng bữa. Từ hôm cái Hạnh học cùng lớp đến thông báo quyết định kỉ luật của nhà trường,Thu càng sống thu mình dưới bếp, đến việc xếp hàng lấy nước sinh hoạt cho gia đình cũng đều do mẹ đảm nhận hoặc hôm nào đợi tới lúc nửa đêm không có ai, Thu mới dám ra lấy mấy xô nước về để tắm giặt. Khổ nhất là mỗi lần phải ra nhà vệ sinh công cộng, lúc đó ngoài chiếc nón đội sụp xuống để che mặt và tránh nhiều ánh mắt soi mói của mọi người. Thu còn phải úp thêm một cái nón rách trước bụng để che đi cái bụng đã nhô ra thấy rõ. Đi đến gần nhà vệ sinh, từ xa Thu có thể thấy rõ bức tường có mầu vàng loang lổ nhưng được ai đó viết lên dòng chữ bằng than đento tướng; CON THU CHỬA HOANG. Trên đường về có mấy bà cụ già trong xóm đang ngồi bắt chấy cho nhau, thấy Thu các cụ bèn nói với nhau; Ngày xưa cái ngữ này cứ phải gọt đầu bôi vôi rồi lột truồng dẫn đi quanh làng mới biết thế nào là nhục. Nghe được những lời đó, Thu chỉ biết cắm mặt đi thật nhanh về nhà, mặc cho hai hàng nước mắt chảy dài trên khuôn mặt. Ngay trên cánh cửa nhà Thu cũng bị ai đó viết chữ NHÀ CÓ ĐỨA CHỬA HOANG.
Từ sau hôm bà Dần đi họp tổ dân phố về, không khí trong nhà lúc nào cũng nặng nề như có đám, không ai dám ngẩng mặt lên với hàng xóm, ở trong nhà chả ai buồn nói với nhau một câu. Bên ngọn đèn dầu leo lét, ba con người ngồi ba góc nhà im lìm và cam chịu, ánh đèn hắt lên tường những hình bóng như bất động, họ luôn cảm thấy mọi lời nói hay cái nhìn là để phán xét nhà mình quản con không nghiêm. Ông Phương nếu tối nào không say rượu lại cởi trần ngồi ngoài cửa hút thuốc lào liên tục, có lẽ khi leo lên xích lô làm một giấc dài, ông mới tạm quên đi nỗi ô nhục mà đứa con gái mang lại. Thương con đứt ruột nên bà Dần âm thầm chịu đựng búa rìu của dư luận, kể cả khi bị đưa ra tổ dân phố để mọi người phê phán. Mọi đúng sai bà nhận hết về mình, chỉ mong sao con bà không nghĩ quẩn mà làm liều. Lúc còn hai mẹ con, bà nói nhỏ với Thu; Thôi việc đã lỡ rồi, người ta cười mình ba tháng, cười mình ba năm chứ không thể cười cả đời được. Có lẽ giờ đây chỉ có tấm lòng bao dung của người mẹ mới là chỗ dựa tinh thần lớn nhất đối với Thu.
Cả tuần nay, cứ 5 giờ sáng là Thu lại thức dậy nấu ăn cho cả nhà. Sau khi cho cơm vào hai chiếc cặp lồng, một cho ông Phương mang theo, một cặp lồng hai mẹ con sẽ mang đến chỗ làm. Nếu vét xoong còn chút cơm cháy hai mẹ con sẽ cho chút nước mắm vào ăn sáng luôn. Cặp lồng cũng chỉ có mấy quả cà, chút dưa muối và lạc rang, lâu lâu sẽ có thêm quả trứng luộc để Thu bồi dưỡng. Thương con ở nhà một mình, bà Dần đã xin cho Thu đến làm cùng với mẹ. Từ sau khi nghỉ việc ở tổ phục vụ, nhờ người quen bà Dần xin vào làm ở HTX dệt Hoàng Ngân ngay mạn Hoàng Cầu. Để tránh mọi sự soi mói, hai mẹ con rời nhà từ sớm, hàng ngày nhiệm vụ chủ yếu của bà Dần và Thu là quay xa để se lanh, đánh ống sau đó chuyển cho bộ phận dệt thảm. Công việc tương đối nhẹ nhàng và hợp với người đang mang bầu như Thu. Đa phần lao động của HTX là phụ nữ, nhiều người là góa phụ, có người thì chồng đang chiến đấu tại chiến trường B. Khi nghe chuyện của con bé Thu, mọi người đều có cái nhìn thông cảm cho con bé. Ở cái tuổi ăn chưa no mà lo chưa tới đã phải sắp sửa làm mẹ.
-------------
Ngày 30.04.1975 cả đất nước như vỡ òa trong niềm vui chiến thắng, tin về việc quân chủ lực của ta cắm cờ trên nóc Dinh Độc Lập đã khiến mọi người đổ ra đường phố ăn mừng. Dù đôi chân bị phù do sắp đến ngày sinh nở, Thu vẫn cảm thấy sung sướng và nhen nhúm hy vọng sớm gặp lại người yêu từ Liên Xô trở về. Hết chiến tranh mọi việc đi lại sẽ thuận tiện hơn rất nhiều, đó là Thu tự nghĩ vậy. Bài hát “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng” vang lên trên khắp hệ thống loa truyền thanh công cộng.
Gương mặt ai cũng vui tươi hồ hởi, ai cũng hy vọng con em mình sẽ sớm được trở về sau một hành trình dài vì nền độc lập của dân tộc.
Sáng nay bà Dần nói với Thu; Chiều nay mẹ sẽ đi tàu điện vào Hà Đông bốc cho con mấy thang thuốc bổ để dưỡng thai, sắp sinh rồi nên con cần phải khỏe mạnh. Thu định hỏi mẹ điều gì nhưng lại thôi. Suốt một tháng sau đó, tối nào nhà Thu cũng ngào ngạt mùi thuốc Bắc, cứ đun ba chén cho cạn lấy một chén uống trước khi đi ngủ. Sau khi đun xong, bà Dần lại đem bã thuốc ra phơi để mấy ngày sau đun thêm lần nữa. Trời tháng sáu mới chớm hè mà đã nắng chói chang, ngày Thu vượt cạn, dù rất giận con nhưng ông Phương vẫn đạp xe xích lô chở hai mẹ con xuống Cây Đa Nhà Bò để sinh nở. Trong lúc con gái kêu la đau đẻ bên trong, ông Dần lôi chiếc điếu cày, là vật bất li thân ra vỉa hè phố Lò Đúc để hút. Vài tiếng sau Thu đã sinh được một bé trai nặng 3,2 cân, bà mẹ trẻ tưởng như kiệt sức trên bàn đẻ. Nằm viện được ba ngày, đợi khi trời xẩm tối cả nhà lại lên chiếc xích lô về nhà. Ngay đêm hôm đó, hàng xóm bắt đầu được nghe tiếng trẻ con khóc trong đêm. Bà Dần cũng mua chịu một chai dầu hỏa để rót vào ngọn đèn Hoa Kì, nhà có trẻ con nên ban đêm không thể tối om được.
Tiếng trẻ con khóc trong đêm khuya vọng rất rõ. Dù ở dãy phía sau nhưng ông bà giáo Thanh vẫn nghe rõ tiếng trẻ con khóc, tiếng ru ầu ơ không phải của mẹ mà là bà ngoại của thằng bé.
---------
Suốt mấy đêm liền bà giáo Thanh gần như mất ngủ, nghe tiếng trẻ con khóc như xé vải khiến bà nhớ lại buổi nói chuyện hồi tháng ba vừa rồi. Tối hôm đó ông bà vừa ăn tối xong, đang ngồi nghe tin tức từ chiếc loa truyền thanh treo ngay giữa nhà bỗng thấy bà Dần sang chơi. Dù là hàng xóm lâu năm, nhưng đây là lần đầu tiên bà Dần sang nhà ông bà giáo Thanh có việc. Sau một hồi bối rối, bà Dần sượng sùng kể lại đầu đuôi câu chuyện, hai ông bà giáo Thanh nghe xong cũng chết lặng. Tuy nhiên ông giáo Thanh cũng nói luôn:
-Có thể cháu nó sợ bị trách phạt nên nói vậy, dù sao cháu Thịnh nhà tôi đang du học ở xa nên không thể kiểm chứng được. Vợ chồng tôi luôn tin con mình không làm việc sai trái đó.
Bà Dân khẽ khàng thưa chuyện:
-Dạ em cũng tin lời con bé nhà em là thật, nếu không thì em dâu dám sang thưa chuyện với hai bác.
Bà giáo Thanh nhẹ nhàng nói:
-Con tôi đẻ ra nên tôi biết rõ hơn ai hết, cháu ngoan hiền và không làm chuyện tày đình đó. Chị mà tin lời con mình sang đây đổ thừa cho cháu Thịnh là không được. Vợ chồng tôi cũng rất quí‎ con bé Thu nhưng tôi chắc là do sợ bố mẹ nên cháu nói bừa vậy thôi. Mặc cho bà Dần tha thiết trình bày, hai vợ chồng ông bà giáo Thanh đều quyết không tin vào việc đó. Khi loa truyền thanh kết thúc “Câu chuyện cảnh giác” hai ông bà giáo Thanh tỏ ý cần‎ đi nghỉ sớm nên bà Dần đành lủi thủi ra về mà nuốt đắng cay vào trong lòng.
Khi bà Dần đi về, ông giáo Thanh dặn vợ; Việc này không liên quan đến thằng Thịnh, bà đừng có tiếp xúc với nhà đó nữa kẻo liên lụy đến con, nhỡ may bên đó nghe được tin này, có khi con mình phải về nước sớm. Vâng lời chồng, bà giáo Thanh cũng tránh không đi dù chỉ là ngang qua cửa nhà ông Phương bà Dần. Dù sao thì nhà ông bà cũng nổi tiếng là nhà gia giáo, làm sao có thể thông gia với gia đình đạp xích lô được. Mọi việc tưởng như đã quên cho đến khi nhà ông Phương bà Dần có thêm thành viên mới.
Sau khi sinh con được 10 ngày. Thu đã nhờ ông Phương đi làm giấy khai sinh cho con mình với tên là Đỗ Hoàng Liên Xô. Thấy con gái lấy họ Hoàng nhà ông bà giáo Thanh ghép vào họ nhà mình, đã thế tên thằng cu lại chính là tên đất nước mà bố nó đang du học. Ông Phương hiểu rằng con mình vẫn nuôi hy vọng ngày đoàn tụ với người ở phương xa. Thương con nên ông đã ra tiểu khu làm thủ tục giấy khai sinh đúng như yêu cầu của con gái. Trên đường đi men theo hồ về nhà, ông Phương thoáng thấy bóng ông giáo Thanh đang cắp cặp và tay cầm cây thước mét đi ngược lại. Nhìn thấy ông Phương, ông giáo Thanh chủ động rẽ ngay vào ngõ nhỏ đầu tiên. Dù chưa biết con ngõ nhỏ này sẽ dẫn ông đi tới đâu, nhưng ít ra ông cũng không muốn nhìn thấy rắc rối ở ngay phía trước.
 
Tống Giang

Tống Giang

Thường Dân
Joined
4 April 2019
Bài viết
15
Reaction score
0
Chương 3
Do sinh thiếu tháng lại không đủ sữa nên Thu nuôi thằng cu Liên Xô khá vất vả. Hàng ngày khi nấu cơm, đợi lúc cơm sôi bà Dần lại chắt ra một bát nước cơm rồi pha thêm chút đường cho cháu uống thay sữa. Nhờ có người mách nước, bà đã tất tả ngược xuôi xin được tờ giấy chứng nhận mẹ thiếu sữa rồi đi xếp hàng từ 5 giờ sáng, cuối cùng bà Dần cũng mua được cho con gái 02 hộp sữa ông Thọ để thằng bé có thêm sữa uống. Tã lót cũng không nhiều, nếu trời nắng không sao, hôm trời mưa gió thì rất khổ, ông Phương cũng phải hy sinh cái vỏ chăn của gia đình để xé ra làm tã cho cháu bé. Vì còn trẻ nên việc phải chăm một đứa bé là quá sức với Thu. Hàng đêm cô phải thức dậy thay tã, cho con b* và pha thêm sữa, rất may bà Dần cũng giúp con gái khá nhiều. Trời mùa hè dưới mái nhà lợp giấy dầu lại càng oi bức, khiến cho đứa trẻ không lúc nào ngon giấc. Hai mẹ con bà Dần phải thay nhau thức quạt cả đêm cho đứa bé.
Thương con vất vả, thỉnh thoảng bà Dần lại xách cặp lồng đi bộ sang phố Hàng Bột để mua cho con bát phở bồi dưỡng. Ngày đó mọi người hay nói “Phở mậu dịch, kịch ti vi”. Bởi vì nước phở mậu dịch như chạy qua hàng xương, mỗi bát phở chỉ có vài ba miếng thịt bèo nhèo, bánh phở vừa dày lại vừa cứng và khó nhai. Mọi người đều biết vậy nhưng vẫn phải mua vì nó rẻ hơn hàng phở bên ngoài.
Bước chân vào cửa hàng phở, bà Dần rụt rè nói với cô mậu dịch viên:
-Chị cho tôi mua một bát phở.
Không thèm ngẩng mặt lên, cô mậu dịch viên hỏi trống không:
-Mua loại nào?
Lúc này bà Dần mới ngước nhìn bảng giá niêm yết.
Phở mậu dịch có hai loại, loại có thịt giá bốn hào, loại không thịt giá hai hào. Để tiết kiệm nên bà Dần mua bát phở hai hào, loại này mọi người hay gọi là “phở không người lái”. Sau khi mua thêm một hào nước phở. Bà Dần xách cặp lồng phở về nhà xẻ ra bát cho con gái ăn, chỗ nước phở mua thêm được bà đổ ra chan với cơm nguội cho bà và ông Phương ăn còn đi làm. Ông Phương dạo này ít uống rượu hơn, ăn tối xong ông lại ra công viên Thống Nhất. Đêm nào nhiều thì ông đem về được mấy con trắm đen hoặc cá mè, có khi được mớ cá thầu dầu để cải thiện bữa ăn. Mấy con cá to được kho với riềng ăn dần, loại cá nhỏ được đảo qua tí mỡ hoặc nấu với dưa. Cuộc sống tuy vất vả, nhưng bù lại nhà có tiếng trẻ con cũng khiến mọi người xích lại gần nhau hơn.
---------
Khi chiến tranh bom rơi đạn nổ, ai cũng mong ước; nếu có hòa bình dù phải ăn cơm với muối trắng cũng thấy hạnh phúc. Bây giờ khi chiến tranh đã kết thúc, mọi người chỉ mong cuộc sống đỡ vất vả hơn. Để chăm sóc cho thằng cu Liên Xô, suốt tháng mọi người trong nhà chỉ ăn cơm với lạc rang, dưa cà muối, họa hoằn lắm có thêm quả trứng luộc, còn tem phiếu để dành mua xương về ninh cho hai mẹ con. Ai cũng thích mua xương hơn thịt vì mua xương sẽ được tăng gấp đôi tiêu chuẩn, phiếu 0,5kg thịt mà mua sườn hay xương ống sẽ được hẳn 1kg. Chính điều này khiến bà Dần phải đi xếp hàng từ 4 giờ sáng, nếu muộn sẽ không mua được. Khi thằng cu được ba tháng, Thu nói với mẹ xin đem việc về nhà cho mình làm kiếm thêm thu nhập. Hàng ngày sau khi cho thằng Liên Xô b* no và ngủ, Thu vội tranh thủ giặt giũ và phơi đống tã lót, thấy máy nước vắng người, cô liền đem đôi thùng ra xếp hàng lấy nước. Mọi ánh mắt nhìn hay lời bàn tán cũng không còn làm Thu bận tâm nữa.
Thậm chí có bà hàng xóm gặp ở máy nước đã hỏi mát mẻ; Thế bố nó là ai và có gửi cho chút gì để nuôi con không vậy cháu. Thu mím môi nhìn thẳng vào mặt người vừa hỏi mình rồi nói; Con cháu đẻ ra cháu nuôi, sao phải đợi người khác gửi cho cái gì. Nghe thấy cô bé nói vậy, người phụ nữ câm bặt. Sau khi gánh nước đổ đầy chum, Thu mới bắt đầu ngồi quay sợi đến trưa thì cho con b*.
Trời về chiều, Thu vừa bế con vừa nhặt sạn gạo chuẩn bị nấu cơm chiều. Gạo mậu dịch nên sạn và thóc nhiều vô kể, riêng ống bơ đựng thóc nhặt ra cũng gần đầy. Nấu cơm xong xuôi, Thu đem hai chiếc đèn dầu ra khêu bấc đổ thêm dầu, lau sạch các muội bám vào bóng đèn. Sau bữa tối, đợi khi thằng cu bắt đầu ngủ, Thu lại cặm cụi ngồi quay xa đến đêm khuya mới nghỉ. Nhiều lúc Thu tự hỏi; không biết giờ này ở Liên Xô xa xôi, Thịnh đang làm gì và có nhớ đến mình không. Nghĩ đến những cực nhọc đắng cay mà mình phải chịu đựng, trong lòng Thu trào dâng nỗi buồn tủi. Cô không biết liệu ở bên đó Thịnh có yêu người khác hay không.
Tự dưng cô lại nhớ đến lời ru con năm nào của chị Thoa hàng xóm, ngày đó chị Thoa mới sinh con thì anh chồng bỏ đi đâu biệt tích. Hàng đêm chị Thoa ôm con và ru những câu, mà Thu hồi đó dù thuộc lòng vẫn chưa hiểu hết.
“Sông sâu lắm khúc đò ngang.
Anh nhiều nhân ngãi em mang oán thù.” ‎​
---------
Lúc Thịnh và các bạn đến thủ đô Moskva của Liên Xô, đúng vào mùa đông tuyết trắng, nhiệt độ ngoài trời là âm 30 độ. Sau những phút giây vui sướng và ngỡ ngàng khi lần đầu thấy tuyết, cả đoàn bắt đầu cảm nhận được cái lạnh thấu xương của mùa đông khắc nghiệt ở nước Nga. Đoàn du học sinh Việt Nam được các bác sĩ kiểm tra sức khỏe trước khi nhập học. Khi biết Thịnh chưa được 49 cân, bà giáo già người Nga đã ôm Thịnh vào người và nhận làm con nuôi. Từ đó cứ cuối tuần, Thịnh lại được vợ chồng bà giáo đón về nhà nấu cho ăn các món truyền thống của Nga, trong đó không thể thiếu món soup củ cải trứ danh. Biết Việt Nam còn đang chiến tranh và thiếu thốn rất nhiều, nên các thầy cô giáo người Nga luôn quan tâm đặc biệt đến đoàn du học sinh. Sau thời gian học tiếng Nga tăng cường, Thịnh được nhận vào học tại Đại học Tổng hợp Quốc gia Moskva mang tên M. V. Lomonosov. Đây là ngôi trường lâu đời và nổi tiếng của nước Nga. Khoa triết học mà Thịnh theo học nằm trên đồi Vorobjovy hay còn gọi là đồi ch** sẻ.
Thời gian mới sang Liên Xô, Thịnh luôn nhớ về Việt Nam và mối tình với cô bé Thu. Có những đêm không ngủ được, Thịnh đã chép vào sổ tay bài thơ nổi tiếng có tựa đề TÔI YÊU EM của mặt trời thi ca nước Nga là Puskin. Lời bài thơ phần nào nói lên tâm trạng của chàng sinh viên xa xứ.
“Tôi yêu em đến nay chừng có thể,
Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai,
Nhưng không để em bận lòng thêm nữa,
Hay hồn em phải gợn bóng u hoài.
Tôi yêu em âm thầm, không hy vọng,
Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen,
Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm,
Cầu cho em được người tình như tôi đã yêu em!”​
Hồi trước khi Thu chuẩn bị thi vào cấp 3, trong một lần đứng xếp hàng lấy nước, bị thu hút bởi vẻ đẹp của cô bé hàng xóm mới lớn. Thịnh đã rụt rè đề nghị; Nếu học có bài nào không hiểu, em cứ mang sách vở sang nhà anh giảng lại cho. Biết Thịnh là người học giỏi nổi tiếng cả xóm này, Thu đã mừng rỡ nhận lời. Từ đó hễ buổi chiều rảnh, Thu lại đem sách vở sang nhờ Thịnh chữa bài và giảng giúp chỗ không hiểu. Là người nhiệt tình, Thịnh luôn kiên nhẫn giảng giải cặn kẽ. Cô bé Thu nhí nhảnh và tươi vui có ánh mắt nhìn cuốn hút khiến chàng tân sinh viên cảm thấy loạn nhịp, giữa Thu và Thịnh đã chớm nở tình yêu đầu đời. Sau khi Thu đỗ vào cấp 3 trong sự ngỡ ngàng của gia đình, hai người gặp nhau thường xuyên hơn trước. Trong một lần gặp nhau như thế cả hai đã không kiềm chế được cảm xúc bồng bột…Khi biết tin Thịnh được sang Liên Xô du học, Thu đã khóc rất nhiều.
Buổi chiều trước ngày lên đường, Thịnh đã chép vào cuốn sổ tay của Thu bài “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mạc Tử như lời nhắn gử;
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”​
Sáng nay khi Thịnh vừa đến trường, từ thầy trưởng khoa cho đến các thầy cô giáo lẫn bạn bè quốc tế đều xúm lại chúc mừng. Cuối cùng thì cuộc hành trình dài đấu tranh thống nhất đất nước của Việt Nam đã thành công. Bà giáo Nga là mẹ nuôi của Thịnh cũng hứa; Nhất định sẽ sang thăm Việt Nam ngay khi điều kiện cho phép. Trong tâm trạng phấn khởi, Thịnh đã viết gửi về Việt Nam hai bức thư, một bức thư dành cho bố mẹ, bức còn lại dành cho Thu. Học bổng dù không nhiều nhặn gì, Thịnh vẫn tiết kiệm từng đồng Rúp để mua quà cho người thân. Hộp quà Thịnh gửi về cho bố mẹ gồm hai miếng vải kẻ, mấy vỉ thuốc bổ và đặc biệt là chiếc đồng hồ để bàn của Liên Xô khá đẹp. Riêng phần Thu được tặng mấy chiếc khăn mùi xoa và một con búp bê Nga. Dịp cuối năm 1975 có một người quen trở về nước, Thịnh đã nhờ đem giúp gói quà và hai bức thư.
Hai tuần sau đó, ông bà giáo Thanh đã nhận được quà và thư của con trai gửi về. Chính bức thư và mấy món quà nhỏ mà Thịnh gửi cho Thu, phần nào đã chứng minh lời bà Dần hôm sang nói chuyện về quan hệ của hai đứa là đúng. Sau một đêm suy nghĩ, ông giáo Thanh quyết định đốt bức thư của con trai gửi cho Thu. Những chiếc khăn mùi xoa được bà giáo Thanh đem tặng cho mấy người họ hàng thân quen, gọi là có chút quà từ Liên Xô gửi về. Con búp bê và chiếc đồng hồ có nhãn hiệu CCCP được ông bà giáo nâng niu như bảo vật và cho vào ngăn kính của chiếc tủ lệch kê ngay buồng khách. Hàng xóm sang chơi, ai cũng trầm trồ về mấy món quà từ Liên xô đem về, ông bà giáo Thanh nở mày nở mặt và hãnh diện với mọi người về cậu con trai hiền lành giỏi giang của mình.
Khi trời xẩm tối, ông giáo Thanh vừa lau tủ vừa nói với bà giáo:
-Thằng con mình lên đường sang Liên Xô du học rất kịp thời, nếu chậm thêm vài tháng nữa, tôi e là tương lai của nó sẽ mờ mịt.
Bà giáo Thanh chỉ khẽ nói với chồng:
-Thế còn thằng bé con thì ông tính sao?
Bà giáo nói quá nhỏ nên bị tiếng loa truyền thanh át mất. Ông giáo đang ngồi gần chiếc loa truyền thanh để chăm chú nghe “câu chuyện cảnh giác”
 
Tống Giang

Tống Giang

Thường Dân
Joined
4 April 2019
Bài viết
15
Reaction score
0
Chương 4
Khi thằng cu Liên Xô tròn 1 tuổi, để tiện làm việc nhà, Thu đã kiếm một sợi dây vải buộc vào cổ chân con mình, đầu dây kia buộc vào chân phản. Vậy là cu cậu chỉ có thể đi lại quanh chiếc phản thôi, nếu không buộc vậy Thu sợ con mình lẫm chẫm mò ra cái hố vôi vừa tôi phía sau nhà thì khổ. Dạo này tối đến Thu lại phụ bố mình đóng gạch ba banh để sửa nhà đang xuống cấp nghiêm trọng, khi mùa mưa bão đang tới. Cứ mỗi chiều ông Phương lại chở một xe xích lô xỉ than về đổ ngay bãi đất sau nhà, cơm nước xong hai bố con lại nhào vôi, cát vàng với xỉ than rồi đổ vào khuôn đóng gạch. Ban ngày trời nắng gạch sẽ khô nhanh, tranh thủ lúc thằng cu lăn ra ngủ trưa, Thu chạy ra đảo gạch cho khô đều, trời tối sẽ xếp ngay ngắn ở sát bếp.
Hai bố con nhẩm tính nếu chăm chỉ đóng gạch, cuối năm có thể xây lại căn nhà cấp bốn khang trang hơn. Ông Phương xin mua được hai cuộn giấy dầu để sẵn trong gầm phản, bà Dần nhờ mua rẻ được hơn chục cây tre già đang ngâm dưới ao rau muống sau nhà. Mọi người đều hy vọng sửa nhà trước khi đón năm mới Đinh Tị. Buổi sáng sớm, bà cụ Thuấn sang nhà gọi Thu; Con ra xếp hàng mua thực phẩm cho bà. Vâng cụ đưa con tem phiếu, Thu nhanh nhẹn trả lời; Nhớ 2 giờ chiều xếp hàng đong gạo luôn nhé, hôm nay đến lượt tổ mình, bà cụ Thuấn căn dặn. Thu vâng dạ, cầm chỗ tem phiếu và bế con ra cửa hàng thực phẩm ngoài phố Hàng Bột.
Hòa bình rồi nhưng không vì thế mà cuộc sống bớt khó khăn, hầu hết các mọi thứ đều bán theo tem phiếu, lúc nào cũng thấy hàng chục người xếp hàng dài trước các quầy mậu dịch, hàng hóa không bao giờ có đủ. Chính nhiều lần đi xếp hàng mua cho gia đình như vậy, Thu đã nhận lời xếp hàng thuê cho bà con trong xóm. Ngày trước ai cần mua chỉ xếp viên gạch đánh dấu là xong, bây giờ khi cửa hàng bắt đầu mở bán, mọi người chen lấn xô đẩy nhau quyết liệt, đống gạch xếp chỗ bị bay đi khắp nơi. Bà con chỉ còn lựa chọn, hoặc tham gia xếp hàng từ 5 giờ sáng, nếu không sẽ thuê người xếp hàng và mua hộ. Chưa kể lúc nào trước các cửa hàng cũng có hơn chục con phe đứng sẵn để gạ mua lại tem phiếu. Mua xong được nửa cân thịt và chai nước mắm cho bà cụ Thuấn, hai mẹ con Thu về nhà ăn vội chút cơm đến giữa trưa lại tất tả cầm sổ ra cửa hàng 157 Khâm Thiên xếp hàng đong gạo. Trong lúc bế con đang ngủ gà gật trên vai, Thu nhìn thấy mấy đứa bạn học ngày xưa đang xách cặp đi học ngang qua chỗ bán gạo, cô vội kéo vành nón che sụp mặt vì không muốn bạn bè thấy mình trong cảnh ngộ như vậy.
--------
Đứng xếp hàng phía sau Thu gần chục người, bà giáo Thanh chăm chú nhìn thằng cu Liên Xô đang ngon giấc trên vai mẹ, mặc cho nắng nóng và mấy chục con người chuẩn bị chen nhau vào mua gạo. Người bình thường chen mua còn khó, vậy mà không hiểu bằng cách nào, Thu vừa bế con vừa tham gia chen lấn xô đẩy rồi cũng mua được 20 cân gạo cho nhà bà cụ Thuấn. Nhìn Thu bế con lại vác 20 cân gạo đi ngang qua, bà giáo Thanh nén tiếng thở dài. Do nhà chỉ có hai ông bà, khi tới lượt mua, cô mậu dịch viên chỉ bán cho 10 cân gạo, số gạo trong sổ sẽ phải một lần đi xếp hàng vào cuối tháng. Chở 10 cân gạo về nhà, bà giáo Thanh vội mở tủ lấy ra cuốn album cũ, bà nhẹ nhàng lần giở từng trang. Đến bức ảnh một cậu bé kháu khỉnh, bà lật mặc sau tấm ảnh vẫn còn nguyên dòng chữ của ông giáo Thanh ghi; Hà Nội 10/1955. Bà nhớ rõ khi cu Thịnh tròn một tuổi, ông giáo đã đèo hai mẹ con lên phố Hàng Khay để chụp bức ảnh làm kỉ niệm. Khuôn mặt của thằng cu Liên Xô hôm nay, giống y như đúc khuôn mặt con trai bà hồi một tuổi. Bà giáo Thanh cứ ngồi thừ ra cho đến khi có tiếng xe đạp ngay ngoài cửa, thấy chồng về bà giáo không nói gì lặng lẽ châm lửa vào bếp dầu để làm cơm chiều.
Trong suốt bữa cơm, thấy chồng phấn khởi thông báo việc con trai được kết nạp đảng bên Liên Xô nhờ học tập chăm chỉ và gương mẫu trong sinh hoạt.
Bà giáo Thanh kể lại câu chuyện hồi chiều rồi hỏi chồng:
-Vậy bây giờ‎ ý ông định giải quyết thế nào, dù sao nó cũng là con cháu nhà mình, trẻ con không có tội tình gì. Hay ông viết thư cho thằng Thịnh, xem ý con mình thế nào?
Ông giáo Thanh im lặng hồi lâu rồi khẽ nói với vợ:
-Thôi được, bà để tôi cân nhắc xem sao, việc này không nóng vội làm theo cảm tính được.
Sau giải phóng, việc tiếp quản các cơ sở kinh tế, tài chính, y tế và giáo dục cần nhiều cán bộ từ ngoài Bắc vào. Nắm bắt được xu thế đó, ông giáo Thanh đã gửi đơn xin được chuyển công tác cho cả hai vợ chồng vào Nam. Sau vài tháng xét duyệt, cuối cùng vợ chồng ông đã nhận được quyết định điều động vào Nam để tăng cường cho đội ngũ cán bộ giáo dục. Cầm tờ quyết định được đánh máy trên giấy pơ luya về cho vợ xem, ông Thanh nói; Vợ chồng mình vào trong đó sẽ được nâng lương và phụ cấp vùng miền, mọi tiêu chuẩn chế độ cũng sẽ được ưu đãi hơn. Nếu cứ tiếp tục công tác ở đây, tôi e rằng cũng nhiều thứ bất tiện. Dù ông Thanh không nói ra, bà giáo cũng biết chồng mình ám chỉ điều gì. Biết tính chồng nên bà cũng lẳng lặng gói ghém đồ đạc chuẩn bị vào Nam, căn nhà đang ở sẽ được bán rẻ cho một người em họ. Bà giáo Thanh cũng giấu chồng, nhờ cụ Thuấn chuyển đến Thu một miếng vải kẻ và một gói kẹo Liên Xô cho thằng bé, đó là quà của Thịnh gửi về biếu ông bà mấy lần gần đây. Cầm trên tay gói quà vẫn thơm mùi Xô Viết, Thu lặng người trong giây lát. Hơn 3 năm trước, đoàn tàu liên vận quốc tế đã đưa người yêu cô đến chân trời mới, chiều tối qua đoàn tàu Thống Nhất cũng đưa gia đình người yêu vào miền đất mới. Vậy là sợi dây hy vọng liên hệ mong manh với Thịnh cũng đã mờ tan.
-----------
Trời vừa ngớt cơn mưa khiến tiết trời dịu mát sau mấy ngày nắng oi ả, Thu bế con ra sân đưa tay chỉ cho cu Liên Xô thấy cầu vồng ngũ sắc như dải lụa bắc ngang nhà, bỗng mấy người trong xóm hớt hải lao tới nói; Mau ra đầu ngõ đi, ông Phương bị cảm nhập tâm rồi. Nghe thấy vậy, Thu hốt hoảng bế con chạy ra đến nơi, cô nhìn thấy mấy thanh niên đang hất chỗ xỉ than trên xe xuống lề đường, xong họ xúm vào khiêng ông Phương lên xe, lúc này mặt ông tái nhợt, mắt thì nhắm nghiền còn đôi tay buông thõng xuống. Cậu thanh niên nhanh chóng đạp xe xích lô chở ông Phương và mẹ con Thu vào ngay bệnh viện Xanh Pôn. Trưa nay trời nắng như đổ lửa, ông Phương nhận chở các con sứ cách điện từ bãi An Dương về nhà máy điện Yên Phụ, lúc gần đến nơi thì trời bỗng tối sầm và mưa như trút nước. Do chủ quan vì hàng sứ không cần che chắn nên ông Phương cố đạp xe dưới trời mưa đến tận nơi giao hàng. Trả hàng xong, trời hửng nắng như lúc trước, ông Phương xúc một xe xỉ than để chở về đóng gạch. Khi đạp xe về đầu ngõ, ông thấy xây xẩm mặt mày và ngã gục ngay xuống đường. Bên ngoài phòng cấp cứu, Thu đứng ngồi không yên chờ kết quả. Khoảng 20 phút sau, một vị bác sĩ ra thông báo; bệnh nhân đã không qua khỏi, Thu ngã quỵ xuống khóc nức nở, từ bây giờ mọi gánh nặng trong cuộc sống sẽ chuyển sang vai mấy mẹ con, bà cháu. Ngày hôm sau, đám tang ông Phương được tổ chức một cách lặng lẽ, chỉ có vài người họ hàng cũng như hàng xóm ở gần nhà đến viếng.
Thằng cu Liên Xô được gần 4 tuổi, trộm vía tuy ăn uống kham khổ nhưng nó vẫn mũm mĩm trắng trẻo, đúng như bà Dần đã nói với con gái hồi xưa; không ai cười quanh năm được. Hễ mỗi lần Thu bận đi xếp hàng thuê, thằng bé lại được gửi sang các nhà trong xóm. Nhiều bà cụ đi lễ chùa ngày rằm, mùng một đều phần cho nó nắm xôi hay đồng oản. Dư âm của ngày chiến thắng qua đi, mọi người mới thấm thía nỗi đau của chiến tranh để lại. Nhiều bà mẹ đã khóc thầm hàng đêm vì con mình đã không trở về mà nằm lại đâu đó ở chiến trường miền Nam. Nhìn thằng cu chơi đùa, các bà mẹ đều ao ước; giá như con mình bình an trở về, có lẽ nó đã lập gia đình và bây giờ mình có cháu bế, giá như trước khi ra trận, nó với cô người yêu cũng có…
Thu mới ngoài 20 nhưng đã già dặn hơn tuổi rất nhiều, nhận thấy việc xếp hàng thuê cũng không đem lại thu nhập nhiều, Thu quyết định tới các chợ đầu mối như; chợ Ngã Tư Sở, chợ Đồng Xuân, chợ Cửa Nam để tham gia đội quân phe phẩy vốn đã rất đông đảo rồi. Lúc này chiến tranh biên giới Tây Nam, chiến tranh biên giới phía Bắc xảy ra liên tiếp khiến cuộc sống lại càng thêm khó khăn.
Thu vừa xách làn nhựa vào chợ Cửa Nam, một con mụ nhìn mặt khá dữ dằn đang phì phèo thuốc lá ngồi giữa một đám vây quanh hất hàm hỏi:
-Con kia ở đâu dám đến kiếm ăn ở đây?
Mấy con nhỏ đứng bên cạnh ghé tai mách đàn chị; Bọn em theo dõi thấy con này đã kiếm ăn tại chỗ chị em mình hơn 10 ngày rồi. Thu không biết con mụ ngồi hút thuốc tên là Minh, nhưng mọi người quen gọi là Minh sư tử. Nhà Minh có ba chị em gái đều là bà trùm ở các nơi. Mụ chị cả Minh sư tử làm trùm phe tại Bách hóa Tổng hợp Tràng Tiền, mụ chị thứ hai là trùm phe kiêm móc túi tại chợ Đồng Xuân. Còn Minh sư tử được các chị phân cho địa bàn khu vực chợ Cửa Nam. Người ta nói "buôn có bạn, bán có phường, phe có hội", trong khi Thu lại thân cô thế cô giữa bầy sói này. Thu ấp úng chưa kịp trả lời bỗng nhận ngay hai cái tát như trời giáng.
 
Tống Giang

Tống Giang

Thường Dân
Joined
4 April 2019
Bài viết
15
Reaction score
0
Chương 5

Bà Dần đang bế thằng cu Liên Xô ra phố để nhuộm mấy bộ quần áo, trong khi xà phòng không có nên đa phần giặt quần áo bằng quả bồ hòn. Để đỡ mất công, bà quyết định chọn toàn bộ quần áo sáng màu của hai bà cháu mang ra nhuộm thành màu xanh cửu long cho bền. Bà Dần vừa ra đến đầu ngõ, ông tổ trưởng dân phố đã gọi giật lại; Bà biết tin gì chưa?
Có việc gì vậy ông, bà Dần ngạc nhiên hỏi lại. Con Thu nhà bà đánh người ta vỡ đầu phải đi cấp cứu, hiện nó bị công an tạm giữ tại đồn 10 rồi, bà mau ra đó xem sao, tiếng ông tổ trưởng hối thúc. Bà Dần choáng váng khi nghe tin sét đánh, vội mang thằng Liên Xô gửi tạm nhà cụ Thuấn, bà tất tả đi dọc đường Nam Bộ đến đồn 10. Nhìn thấy con gái quần áo rách bươm, mặt mũi sưng vù còn một tay bị xích vào thành ghế khiến bà Dần bật khóc. Tranh thủ lúc công an đang lấy lời khai của một đám bị bắt vì tội đánh bạc, bà Dần vội chạy đi mua một chiếc bánh giò nguội rồi đem vào cho con gái ăn tạm. Thu giơ tay nhận chiếc bánh rồi nói; Mẹ về trông cháu đi, con không sao đâu. Thương con nhưng trời đã tối nên bà Dần lại quay về lo cơm nước cho thằng cháu.
Thu bị công an tạm giữ tại đồn 10 đúng 24 tiếng, sau khi công an lấy lời khai. cho lăn tay chụp hình và làm hồ sơ, họ trả về công an khu vực đưa vào diện quản lí, dù chưa có tiền án nhưng hồ sơ cũng ghi là có tiền sự tội gây thương tích. Ảnh của Thu và một số con phe tham gia ẩu đả được in và dán ngay phía ngoài cổng chợ cửa Nam cho mọi người biết mặt. Tiền và tem phiếu mất hết trong lúc giằng co, chiếc làn nhựa cũng bị đứa nào giật luôn. Chiều tối hôm sau, Thu trở về nhà với hai bàn tay trắng còn toàn thân đau ê ẩm vì trận đòn thù của lũ phe. Buổi trưa hôm đó, sau khi nhận hai cái tát từ một đàn em của Minh sư tử, Thu xây xẩm mặt mày còn máu từ mũi thì bắt đầu tuôn chảy. Minh sư tử tiến đến co chân đạp thẳng vào bụng khiến Thu ngã lăn ra sàn chợ. Một con phe trong hội đã túm tóc cô dựng cho ngồi lên, ngắm nhìn thân hình tươi trẻ của Thu, Minh sư tử vằn mắt nhìn Thu rồi rít lên; Loại mày chỉ làm phò không làm phe được, định đú làm phe thì tao cho làm phò luôn. Nói xong Minh sư tử thò tay vào cạp quần lụa của Thu, chuẩn bị xé toạc ra.
Dù bị tát và đạp cho xây xẩm mặt mày, bản thân đang khiếp sợ trước đám phe này, nhưng trong tích tắc không muốn bị bọn này làm nhục giữa ban ngày. Thu bất chợt vùng lên dữ dội.
Người ta hay nói “yếu trâu còn hơn khỏe bò” quả không sai. Con mụ đang túm tóc Thu bị cô hất ngã ngửa đạp đầu ra sàn chợ, Thu đạp mạnh Minh sư tử ra, nhanh như chớp cô rút ngay chiếc guốc mộc đang đi dưới chân nhằm thẳng mặt của mụ trùm phe chợ cửa Nam mà phang, thấy đàn chị bị guốc phang vỡ đầu, máu văng ra khắp nơi, lũ đàn em lao vào cấu xé, giẫm đạp Thu để trả thù. Chỉ đến khi tiếng còi, tiếng hô bắt của lực lượng công an mới khiến lũ phe chạy tan tác khắp nơi. Trên nền chợ còn lại Thu và Minh sư tử, cả hai đều nằm vật vã rên rỉ vì đau đớn. Xe xít đờ ca của công an chạy tới, Thu bị xích tay đưa về đồn giải quyết còn Minh sư tử được đưa vào bệnh viện Việt Đức ngay sau đó.
--------------
Bà Dần hàng ngày ra vườn hái lá láng hơ trên bếp lửa để chườm vào các chỗ bị thâm tím trên người con gái, nằm trên phản Thu lại thấy xót xa cho gia cảnh, cô vẫn quyết chí làm giàu để không phải chịu cảnh nhục nhã và cũng vì tương lai của con trai mình sau này. Dưỡng thương được năm ngày, Thu đi xuống khu tập thể Trung Tự để bắt đầu tìm công việc mới. Bà Dần lo lắng hỏi con; Sao con không quay về làm xã viên dệt thảm cho ổn định, cứ lăn lộn ở ngoài rồi lại khổ. Thu lắc đầu giải thích với mẹ; Con không muốn chôn chân mãi chỗ đó, thôi mẹ kệ con tự tính. Biết tính con gái, bà Dần đành thở dài im lặng. Xe đạp không có, Thu đi bộ dọc con đê nhỏ và ruộng rau muống, cô nhằm hướng tháp nước Trung Tự thẳng tiến. Khi đến gần tháp nước, Thu nhìn thấy cửa hàng có treo biển' HTX MUA BÁN TRUNG TỰ, bước vào trong cô thấy lão chủ nhiệm HTX mua bán đang phì phèo thuốc lá còn tay cầm cái vỉ đập ruồi. Vừa nhìn thấy Thu, lão đã đờ người ra giây lát.
Sau khi nghe Thu trình bày, lão gật đầu luôn mà không hỏi gì nhiều. Sở dĩ Thu tìm đến đây là do giới thiệu của cụ Thuấn, cháu họ cụ tên là Hoán đang‎ tìm người phụ bán hàng. Cư dân trong vùng hay gọi lão là Hoán trâu, vì ngày trẻ lão có lên mạn ngược buôn trâu một thời gian. Lão Hoán có tướng ngũ đoản, người lùn bụng phệ còn tay chân như chuối mắn, đôi mắt ti hí của lão thì vô cùng tinh ranh. Ngay khi nhìn thấy Thu, lão Hoán đã cảm thấy như có luồng điện chạy dọc sống lưng vậy.
HTX mua bán có nhiều mặt hàng, từ xà phòng cho đến nước mắm, dầu hỏa và đồ dùng sinh hoạt bằng nhựa. Nhưng mặt hàng chủ lực vẫn là bia hơi và nước chanh có ga, ngoài ra cứ tầm trưa HTX lại nhập về mấy cây đá để phục vụ bà con ở các dãy nhà trong khu tập thể và vùng lân cận. Các cụ nói “gái một con trông mòn con mắt quả không sai”, từ ngày có Thu ngồi rót bia bán hàng, HTX mua bán đông vui tấp nập hẳn lên. Ngoài bia, HTX bán kèm đồ nhậu như lạc luộc, lạc rang, nem chua và đặc sản là món dồi chó nướng. Món này phải tự tay lão Hoán làm mới ngon và đúng điệu, khách đến uống bia và ngắm cô bán hàng có khuôn mặt ưa nhìn, thân hình nở nang. Ngay như lão Hoán dù bận thu tiền và tiếp khách vẫn không quên liếc nhìn bộ ngực căng tròn của Thu. Chính lão đã tận tâm chỉ bảo các mánh khóe bán hàng cho Thu như; làm sao rót một cốc bia có non nửa là bọt, hay đợi khách ngà ngà say thì đánh tráo loại bia kém chất lượng cho khách. Việc bán hàng cũng bận như con mọn, bù lại Thu có nguồn thu nhập cũng khá hơn hồi làm xe sợi để dệt thảm.
Thấy Thu ngày nào cũng đi bộ vất vả, hôm cuối tháng khi chuẩn bị đóng cửa hàng, lão Hoán vừa cười nham nhở vừa đưa bàn tay chuối mắn bóp nhẹ vào mông Thu và nói; Nếu em cứ chăm chỉ ngoan ngoãn và nghe lời, sang tháng anh sẽ trích quỹ phúc lợi của HTX mua tặng em một con xe đạp Thống Nhất được không. Thu khẽ nghiêng người né bàn tay tham lam của lão Hoán và nói; Em đợi con xe đó của anh đã nhé.
Lão Hoán nuốt nước bọt thèm thuồng rồi gật đầu lia lịa, là kẻ hám gái, trước vẻ đẹp mơn mởn của Thu, nếu có xui đào mả tổ lên mà được toại nguyện, chắc lão cũng đào luôn huống chi là một con xe đạp.
Hai bà cháu thằng Liên Xô vừa mang cơm nguội ra ngoài tiểu khu để cho nhân viên y tế trộn thuốc làm bả chuột, đang đi bỗng nghe thấy tiếng chuông xe đạp kính coong, cu Liên Xô quay lại mừng rỡ hét lên; Mẹ về, mẹ về rồi lại đi xe đạp đẹp quá.
 
Tống Giang

Tống Giang

Thường Dân
Joined
4 April 2019
Bài viết
15
Reaction score
0
Phần 6
Nhờ có thành tích học tập xuất sắc, sau khi nhận bằng đỏ tốt nghiệp, Thịnh được giữ lại làm nghiên cứu sinh lấy học vị Кандидат наук tức Phó Tiến sĩ chuyên ngành Triết học. Chính trong kì nghỉ hè trước khi học lên cao. Thịnh đã gặp Hoài, một sinh viên mới sang Liên Xô theo học ngành Văn học Nga. Cả hai đã có tình cảm và tìm được ở nhau nhiều điểm chung, Thịnh có thể ngồi cả buổi nghe Hoài say sưa nói về các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng của Liên Xô mà không chán, còn Hoài cũng chăm chú lắng nghe Thịnh nói về phép biện chứng mác xít hoặc những điều cao siêu đến mức không tưởng. Tình yêu của hai người được hai bên gia đình và tổ chức ủng hộ.
Trước khi Thịnh về nước, Hoài đã thông báo; Vì tương lai của đôi ta, bố em sẽ thu xếp công việc cho anh, đây là cơ hội tốt anh nên nắm bắt lấy. Thịnh cảm động ôm lấy người yêu và gật đầu đồng ý. Ông bố Hoài làm bên Sở ngoại vụ nên khi Thịnh về nước, ông đã tác động cho Thịnh vào liên doanh dầu khí Vietsovpetro mới thành lập để làm việc. Công việc không đúng chuyên môn nhưng điều quan trọng là tiếng Nga vẫn được sử dụng hàng ngày. Hôm Thịnh mang hồ sơ và thư tay của bố người yêu đến gặp phòng tổ chức công ty liên doanh dầu khí Vietsovpetro, ông trưởng phòng vui vẻ nói;
Cậu đã có thư giới thiệu của anh Tư rồi là yên tâm nhé. Đúng một tuần sau Thịnh đã được gọi đi làm tại trụ sở chính của công ty dưới Vũng Tàu.
Cuối năm 1981 Hoài về nước và được bố đưa về Sở ngoại vụ Thành phố làm việc, đám cưới của họ được tổ chức ngay sau đó và hai gia đình được coi là môn đăng hộ đối. Lấy nhau xong, Thịnh không đưa vợ về sống cũng bố mẹ, hai vợ chồng chuyển về sống tại một căn nhà nhỏ nhưng tiện nghi ngay quận 3, đây là quà của bố mẹ vợ cho.
Để chuẩn bị cho việc thăm dò và khai thác những tấn dầu đầu tiên, Thịnh luôn phải đi lại như con thoi giữa Sài Gòn và Vũng Tàu, dù thông cảm với chồng, nhưng Hoài đôi lúc không khỏi chạnh lòng vì vợ chồng mới cưới mà chỉ gặp nhau vào mấy ngày cuối tuần. Sau mấy năm lấy nhau, cuối cùng vợ chồng Thịnh cũng đón chào thành viên mới trong niềm vui mừng khôn xiết của hai gia đình. Để kỷ niệm tình yêu với Liên Xô và nước Nga, em bé được hai vợ chồng đặt tên là Bạch Dương
------
Sài Gòn tiết trời tháng 4 vẫn còn oi nóng, hôm nay ông bà giáo Thanh ăn mặc chỉnh tề để chuẩn bị đi dự lễ mít tinh kỉ niệm 10 năm ngày giải phóng Sài Gòn và 40 năm ngày thành lập nước. Ông giáo Thanh ngắm mình trong gương để chỉnh lại cà vạt, bà giáo Thanh nói với chồng;
Tôi thấy trên đài thông báo, năm nay ngoài Hà Nội sẽ tổ chức duyệt binh rất lớn nhân dịp Quốc khánh, chắc ngoài đó sẽ đông vui hơn trong này. Biết vợ nhắc khéo vụ ra Bắc chơi như đã hứa, ông giáo Thanh nói; Thôi vợ chồng mình đi cho kịp giờ. Ông giáo Thanh chở vợ trên con xe cub 81 lướt nhanh trên đường, từ nhà chưa đến 15 phút hai ông bà đã tới bến phà Thủ Thiêm để sang trung tâm thành phố. Gần 10 năm lập nghiệp tại vùng đất phương Nam đầy nắng và gió, cuộc sống của hai ông bà có nhiều thay đổi. Ông giáo hiện đang là hiệu trưởng một trường cấp 2 ở Thủ Đức, còn bà giáo Thanh vừa cầm quyết định nghỉ hưu theo chế độ. Người về già thường hay sống bằng hoài niệm, mỗi sáng tiễn chồng đi làm, bà giáo Thanh thường có thói quen đọc lại các lá thư của con trai gửi từ Liên Xô về, trong chiếc hộp sắt cũ được để ngay đầu giường có một thứ bà còn quí‎ hơn vàng. Đó là tấm hình cu Thịnh chụp hồi 1 tuổi và một bức hình chụp cu Liên Xô khi đã lên 3 tuổi. Để có tấm hình này, bà đã bí mật nhờ cô em họ, người đã mua lại căn nhà của hai ông bà hồi chuyên vào miền Nam thực hiện.
Trong một lần được Thu nhờ trông con hộ, người này đã bí mật dắt thằng bé ra phố Khâm Thiên chụp tấm hình gửi vào cho bà. Từ ngày về hưu, bà giáo luôn mong có ngày được trở ra Bắc nhưng vì ông chồng quá bận nên dự định chưa thành hiện thực. Năm ngoái bà đã nhận được thư của cô em họ thông báo, nhà bà Dần đã bán nhà và chuyển đến chỗ khác sinh sống, vậy là tình hình của hai mẹ con Thu không còn được cập nhật như hồi trước. Nén tiếng thở dài bà lại mong có dịp ra Bắc để được gặp lại thằng cu Liên Xô, dù việc đó bây giờ khó vô cùng, từ khi lên chức hiệu trưởng rồi được bầu vào quận ủy viên, ông giáo Thanh suốt ngày họp hành liên miên, chưa kể ăn nhậu tối ngày đúng như cách sống trong này. Đặc biệt từ ngày vợ chồng Thịnh sinh con đầu lòng, ông giáo Thanh vô cùng mãn nguyện. Đối với ông, thằng cu Liên Xô là vết nhơ cần xóa bỏ khỏi kí ức của gia đình.
-------
Nghe tiếng trẻ con khóc, Thu giật mình tỉnh giấc. Chiếc quạt tai voi ngay cuối giường đã ngừng chạy. Từ tối đến giờ,đây là lần mất điện thứ tư, Thu với chiếc quạt nan rồi quạt cho thằng cu con đỡ nóng. Nhờ ánh đèn dầu leo lét trên bàn thờ, cô bước xuống bế thằng Liên Xô lên nằm cạnh đứa em, Thu ngồi quạt cho cả hai đứa. Chừng 20 phút sau có điện trở lại, thấy đèn vụt sáng, Thu vội chạy ra chỗ để súp-vôn-tơ điều chỉnh dòng điện. Có luồng gió mát phả vào, hai đưa trẻ lại chìm vào giấc ngủ. Thằng Liên Xô ngủ mơ nên miệng nói lảm nhảm còn tay chân thì khua khoắng một chút. Ngắm con Thu tự hỏi; sao nó không được thừa hưởng gien hiếu học của bố và gia đình bên nội nó nhỉ. Bằng tuổi nó hết hè này các bạn sẽ lên lớp 4, trong khi cu cậu do bị đúp lên vẫn học lại lớp 2, đã vậy cô giáo cũng thông báo cho Thu; với sức học như hiện nay, dù các cô đã rất nhiệt tình phụ đạo nhưng cũng không chắc nó có thể lên lớp được hay không.
Kể từ khi sinh con thứ hai, Thu bận rộn hơn trước nên không mấy khi kèm thằng Liên Xô học được, mà cu cậu chỉ thích nghịch ngợm, đá bóng còn nói đến học là trốn biệt. Nhìn lên bàn thờ nơi có di ảnh của bố mẹ mình, Thu ước giá ông bà còn sống để vui vầy bên đàn cháu thì tốt biết mấy. Bà Dần ốm nặng rồi mất khi Thu đang mang thai lần hai được ba tháng. Cũng giống như ông Phương, bà đã không được ở trong ngôi nhà mà con gái đang xây dở. Ngôi nhà một tầng nhưng cao ráo và có gác xép, nhà được xây kiên cố và lợp mái ngói, đây là niềm mơ ước và tâm huyết bao năm mà Thu đã cố thực hiện cho bằng được. Ba mẹ con ngủ ngon cho đến khi tiếng xe máy ngày ngoài cửa khiến Thu tỉnh giấc và ra mở cửa. Lão Hoán dựng con DD đỏ bóng loáng phía ngoài, vừa bước vào nhà lão đã cúi xuống hôn hít và cưng nựng thằng bé con.
Thấy cu Liên Xô tỉnh giấc, lão Hoán nói:
Mau ra ngoài cửa trông xe cho bác nhanh, do bị sai bảo nhiều lần nên cu Liên Xô nhanh chóng ra cửa ngồi nhìn con xe cho lão Hoán.
Đợi Thu từ nhà tắm đi ra, lão Hoán thì thào; Chút nữa nhờ người trông con rồi em ôm tiền vào Hà Đông mua hàng, giá nào cũng mua không được mặc cả, thấy lạ Thu hỏi lại:
-Mua kiểu đó thì lấy đâu ra lãi?
Lão Hoán gắt lên:
-Tôi bảo sao cứ vậy mà làm, nếu không rồi đến cháo không có mà húp.
Biết tính thằng cha này rất cục súc, nhưng vô cùng nhạy bén trong kinh doanh, nên Thu im lặng không hỏi gì nữa. Đợi hai thằng cu ăn xong, Thu dắt hai anh em đi gửi còn mình bắt tàu điện vào Hà Đông theo chỉ đạo của lão Hoán. Để tránh bị móc túi trên tài điện, Thu nhét xấp tiền vào túi vải rồi nhét sâu vào trong quần lụa cũ đang mặc, vì không muốn bị thuế vụ hay công an để mắt tới, cô khoác thêm chiếc áo bộ đội cũ nát và có mấy miếng tích kê ở vai và lưng áo. Suốt một tuần liền, theo lệnh của lão Hoán, Thu đem tiền đi thu mua hàng nông sản, hàng tiêu dùng về chất trong kho của HTX mua bán nhưng tuyệt nhiên không được bán ra. Khi tin đồn về đổi tiền lan ra khắp thành phố, lúc đó Thu mới hiểu, việc thu mua hàng mà không cần tính lời lãi của lão Hoán nằm trong dự định từ trước.
Lúc chiều Thu hớt hải đưa cho lão Hoán tờ báo có bài xã luận với nội dung "Bẻ gãy thủ đoạn tung tin đổi tiền của gian thương...". Đọc xong lão Hoán chỉ nhếch mép cười không nói gì, còn Thu lo lắng vì vốn liếng bỏ ra mua một đống hàng về chất trong kho mà không được bán ra. Tuy nhiên chỉ hai ngày sau, lệnh thu hồi tiền cũ và đồng loạt thay tiền mới được ban hành, lúc này Thu mới thấy cảm phục con cáo già Hoán trâu. Vụ đổi tiền này, nhiều con buôn đã mất cả một đống tiền tích lũy bao năm trời, không đổi được nên hàng bao tải tiền thành vô giá trị. Chỉ riêng việc thắng lớn trong vụ đầu cơ tích trữ này, Thu được lão Hoán chia cho 5 cây vàng và hai trăm ngàn tiền mới.
-------------
5 năm trước khi Thu chân ướt chân ráo được nhận vào HTX mua bán, thấy Thu có vẻ đẹp mặn mà, chính lão Hoán đã phân cho Thu được ngồi quầy rót bia cho khách, không phải làm chân bưng bê rửa chén bát như mấy người mới vào làm. Trong thời gian bán hàng, Thu nhận thấy nhiều mặt hàng đang khan hiếm ngoài thị trường mà không biết bằng cách nào lão Hoán lại mua được. Ngay như việc có sổ được mua không phải một mà vài bom bia của nhà máy bia Hà Nội trên đê Hoàng Hoa Thám cũng đủ biết tài luồn lọt của lão Hoán là đáng nể. Thu mong muốn kiếm tiền từ nguồn hàng đó, nhưng trước hết cô phải có xe đạp để thuận tiện cho giao dịch trước đã. Như thấu hiểu nỗi niềm và ước mơ của Thu, lão Hoán trâu đã gợi ý mua tặng cô chiếc xe đạp. Phía sau món quà đắt tiền đó là gì, Thu quá hiểu rõ. Sau lần phải ngồi đồn 10, Thu đã rút ra được bài học cho chính mình, thân cô thế cô sẽ không làm nên chuyện.
Tỉnh giấc lúc nửa đêm trong một ngôi nhà tại Hải Phòng, Thu định thần một lúc rồi nhớ ra buổi ăn tối cô và lão Hoán cùng nhau uống vài li rượu nhỏ. Nhìn sang bên cạnh, lão Hoán đang ngáy như sấm rền, nước dãi chảy xuống ướt sũng một bên gối khiến Thu bất chợt rùng mình vì kinh tởm. Để được tòm tem với Thu, lão Hoán không chỉ mất cho cô chiếc xe đạp Thống Nhất như đã hứa, bằng sự tỉ tê của mình Thu đã khiến lão Hoán phải nhả ra vài đầu mối để cô tự mua đi bán lại kiếm lãi. Ngày trước Thu đến với Thịnh bằng tình yêu trong sáng của người con gái mới lớn, cô đã tự nguyện dâng hiến sự trong trắng cho người yêu, nhưng đổi lại cô nhận được về bao nhiêu nỗi tủi nhục đắng cay và ê chề. Thu nhớ lại, cô và Thịnh chỉ duy nhất một lần quan hệ với nhau và thằng Liên Xô đã kết quả của lần vượt rào đó. Khi thấy Thu khóc rất nhiều, Thịnh đã vỗ về an ủi; Anh sẽ mãi yêu thương và bên cạnh em, đừng lo sợ điều gì…Lời nói gió bay, Thịnh ra đi để Thu trong nỗi nhớ khắc khoải và chịu đựng mọi điều tiếng. Lần này Thu chấp nhận ngủ với lão Hoán đơn giản chỉ là vấn đề kinh tế, dù cô không hề có chút tình cảm gì với lão dê già này. Sau chuyến đi Hải Phòng khuân về được lô máy khâu cũ nhập lậu, Thu và lão Hoán quyết định làm ăn lớn hơn. Cả hai quyết định tìm thêm nhiều mối hàng từ trong Nam đang rất được ưa chuộng thị trường ngoài Bắc. Dù vướng bận hai con nhỏ, nhưng Thu vẫn tích cực tham gia các phi vụ buôn bán, tiền chảy về như nước chính là động lực để Thu làm giàu.
--------
Nghe Thu báo tin mình mang thai và chắc chắn là con trai, lão Hoán sướng như phát điên. Chính lão đã cùng Thu tìm mua được căn nhà cũ ngay đường Láng với giá rẻ, Thu cho phá dỡ rồi xây lên ngôi nhà khang trang để đón thằng cu ra đời. Lão Hoán lấy vợ từ khi còn trẻ nhưng chỉ sinh được 3 cô con gái, tiếng là kẻ buôn trâu và chưa học hết tiểu học, nhưng hễ giáp mặt với vợ con lão lại nhớ và nhai đi nhai lại câu “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô - có được một người con trai, cũng được coi là có con, còn có 10 người con gái, thì cũng coi như là không ...” . Biết chồng khát con trai nên thấy lão Hoán dán díu với Thu, vợ lão đành coi như nhắm mắt bịt tai không biết gì. Dù sao lão cũng một tay nuôi cả gia đình, đó là một kì tích với nhiều người. Hồi còn sống bà Dần từng khuyên con gái; Làm việc gì cũng phải từ từ thôi con, mẹ thấy mày kiếm được nhiều tiền quá đâm lại lo. Việc Thu quan hệ với lão Hoán đã có vợ cũng khiến bà thêm buồn phiền và xấu hổ với hàng xóm, chính vì thế nên khi Thu ngỏ ý‎ muốn bán nhà chuyển xuống đường Láng, bà Dần đã vui vẻ gật đầu, tiếc là nhà chưa xây xong thì bà đã về cõi vĩnh hằng sum họp cùng chồng mình.
Ngày Thu sinh thằng cu, lão Hoán đã phi xe về quê tận Hải Hậu nhờ một ông thầy có tiếng là người trong họ xem tử vi cho con mình. Ông thầy đã phán; con anh sinh năm Giáp Tý (1984) mệnh Hải Trung Kim tức là vàng trong biển, sau này sẽ giàu sang phú quí, nó lại hợp mệnh với anh nên việc làm ăn sẽ rất phát. Nghe thầy nói vậy lão Hoán tin ngày, gì chứ vàng trong biển là có thật, mỗi lần xuống Hải Phòng ôm hàng, chính mắt lão tận mắt chứng kiến sự giàu có của đám thủy thủ viễn dương tàu Vosco. Mỗi lần đi biển là khuân về cơ man hàng bãi rác, đống hàng bãi đó sẽ được quy ra chỉ ra cây vàng hết, đó chẳng phải là Hải trung kim thì còn là gì nữa. Hậu tạ cho ông thầy số xong, lão Hoán lại tất tả quay về Hà Nội ngay trong tối hôm đó. Lão Hoán đặt tên cho quí‎ tử của mình là Trần Hải Kim, với mong muốn thằng bé sẽ được như lời thầy phán.

Sáng nay Thu nhờ người trông thằng bé còn cô đưa thằng Liên xô đi học, dạo này cô giáo kêu về nó nhiều quá. Dù đến cổng trường rồi, có hôm nó vẫn trốn học đi chơi, sách vở đang viết nó cũng đem ra gấp máy bay phi lên trời cho thích. Đưa con vào tận lớp giao cho cô giáo, sau khi biếu cô hai bánh xà phòng 72% Thu nói "trăm sự nhờ cô" rồi ra về. Thu đạp xe đến Trung Tự để làm sổ sách và chuẩn bị cho việc nhập lô hàng mới. Khi xe rẽ vào đầu khu tập thể, cô nhìn thấy rất nhiều công an, phòng thuế và cả mấy bác dân phòng đang đứng ngay bên trong cửa hàng, phía ngoài bà con tụ tập khá đông để theo dõi, bàn tán sôi nổi. Thu như chết lặng khi có người đặt tay lên vai và gọi đúng tên mình.
Còn nữa
 
Tống Giang

Tống Giang

Thường Dân
Joined
4 April 2019
Bài viết
15
Reaction score
0
Phần 7
Chưa đến 10 giờ sáng, lão Hoán đã ngồi lù lù như ông La Hán trên chiếc sập gụ kê giữa nhà, tiếng nhạc vàng phát ra từ chiếc đầu Akai 79 nghe não nề. Trước mặt lão là một mâm đồ nhậu gồm tiết canh,lòng lợn, nem chua và bình rượu thuốc. Vừa nhâm nhi chén rượu thuốc, lão Hoán vừa quát vợ mắng con; sao đem thiếu quả ớt, sao mắm tôm chưa vắt chanh và đánh cho sủi bọt. Ở nhà này lão tự cho mình là lãnh chúa, mụ vợ già và ba con vịt giời, theo như lời lão hay nói vậy chỉ biết cắm mặt mà nghe lão sai bảo. Nếu có bất kì sự lời phản kháng nào, cả mâm cơm sẽ bay vèo ra giữa sân ngay lập tức. Biết tính lão Hoán nên mấy mẹ con chỉ biết âm thầm nhẫn nhục. Vợ lão từng là một cô gái đẹp nức tiếng một thời trên vùng Bắc Kạn, trong một lần mò lên đó mua trâu của đồng bào dân tộc, lão Hoán đã phải lòng cô sơn nữ và họ nên duyên vợ chồng. Khi lấy vợ, lão nhận được hai con trâu và mấy cây vàng là của hồi môn do nhà vợ trao tặng. Hai vợ chồng lão đã mua căn nhà ngay làng Khương Thượng. Tình yêu kết trái đơm hoa nên chỉ chưa đầy 10 năm, họ đã có với nhau ba mặt con gái. Là một kẻ gia trưởng, lão Hoán chỉ mong có mụn con trai để nối dõi tông đường, vợ lão sinh nở nhiều nên nhan sắc cũng tàn phai theo năm tháng. Việc lão quan hệ hoang đàng ở bên ngoài nhằm kiếm cho được một thằng cu, mấy mẹ con đều biết nhưng đành cam chịu.
Từ ngày chính phủ nghiêm cấm giết mổ trâu bò nhằm đảm bảo sức kéo cho nông nghiệp, lão Hoán chuyển sang buôn bán các mặt hàng khan hiếm. Chính nhờ phất lên từ các chuyến phe hàng trót lọt, lão đã chạy chọt và xin thành lập HTX mua bán, thực chất cũng chỉ là bình phong cho các chuyến hàng lậu của lão.Kể từ ngày Thu đẻ cho lão được thằng cu nối dõi, lão thấy số mình đúng như lão thầy bói đã phán; về già sẽ có lộc, đúng là con người ăn nhau về hậu vận. Đang ăn uống ngập miệng, lão Hoán thấy đứa cháu họ hớt hải đạp xe đến báo tin; Công an và phòng thuế đang kiểm kê và niêm phong hàng hóa tại cửa hàng rồi cậu. Nghe đứa cháu nói vậy, lão Hoán giật mình như choàng tỉnh. Lão chạy vội ngay vào gian bên trong, chui vào gầm giường lôi ra một thùng đựng lương khô cũ đã gỉ. Mở nắp thùng lương khô, lão Hoán trút toàn bộ số tiền vàng vào ba lô rồi nhét mấy bộ quần áo xếp đè lên trên. Lão Hoán lao xuống bếp dặn vợ con; Nếu công an hay phòng thuế đến tìm, nhớ phải nói là tao về quê chữa bệnh nghe chưa. Mặc cho mấy mẹ con ngơ ngác không hiểu chuyện gì, lão Hoán nhờ đứa cháu đèo mình ra bến xe Kim Liên.
----------------
Tiếng mở khóa vang lên, người quản giáo đứng ngay phía ngoài gọi tên; Đỗ Bích Thu ra cửa, nghe thấy gọi tên mình Thu vội đứng lên bước ra phía ngoài, mấy nữ phạm nhân khác khẽ nói với nhau; Hôm nay đi cung sớm quá nhỉ.
Đi dọc dãy hành lang của Hỏa Lò, qua một khoảng sân đày nắng Thu được dẫn vào một căn phòng nhỏ. Vừa bước vào phòng, Thu sửng sốt khi nhìn thấy người công an ngồi sau bàn làm việc, cô reo lên:
-Chị Ngần phải không?... em Thu đây.
Tiếng người công an dẫn giải vang lên:
-Đề nghị đương sự trật tự ngồi xuống ghế, chỉ trả lời khi được hỏi, rõ chưa?
Thu vội gật đầu và im lặng ngồi xuống ghế đối diện với thiếu úy công an mà Thu gọi tên là Ngần.
Sau phần hỏi họ tên, địa chỉ, người công an bỗng hỏi; Thế đêm qua em có ngủ được không, có nhớ con không. Nghe nhắc đến con, Thu òa khóc. Người nữ công an nói, em cứ bình tình khai hết mọi hoạt động mua bán của lão Hoán, thời gian và địa điểm ở đâu chỉ có thành khẩn mới sớm được trở về với con mình. Nói xong vị cán bộ hỏi cung đưa tờ giấy và chiếc bút Hồng Hà cho Thu viết. Trong suốt hai tiếng sau đó, Thu đã viết gần kín 8 trang giấy với nhiều chi tiết cụ thể, đón nhận bản tự khai trên tay Thu, người cán bộ công an mới ôn tồn nói; mọi thông tin sẽ được cấp trên đánh giá và thẩm tra lại, chị sẽ lưu tâm đến việc em đang nuôi con nhỏ. Thu vâng dạ rồi theo chân người quản giáo về lại phòng tạm giam.‎
Người nữ cán bộ hỏi cung đó không phải xa lạ với Thu, mấy tháng trước, chị hay quẩy đôi quang gánh đi thu mua lông gà lông vịt quanh khu Kim Liên và Trung Tự, cứ tầm gần trưa chị Ngần tên người phụ nữ đó lại ra cửa hàng của HTX mua bán để mua cốc nước chanh có ga. Mua nhiều nên thành khách quen, những lúc rảnh rỗi Thu và chị Ngần cũng hay tâm sự về cuộc sống, về mọi thứ. Chính cô không ngờ chị Ngần đồng nát là một chiến sĩ công an hóa trang nhằm theo dõi hành vi buôn lậu của lão Hoán, mọi câu chuyện với Thu cũng như các hoạt động giao dịch đều nằm trong tầm ngắm của công an từ khá lâu rồi. Mọi việc có lẽ bắt nguồn từ việc công an bắt được lô hàng nhập lậu cực lớn của đám thủy thủ tàu viễn dương Vosco.Từ đó chuyên án mở rộng về các tỉnh thành, mà lão Hoán là một mắc xích trong đường dây đó.
----------
Sáng hôm đó, khi thấy lực lượng công an và phòng thuế đang kiểm tra hàng hóa trong cửa hàng, Thu định quay xe bỏ đi, bỗng nhiên anh Thành công an khu vực đã đặt tên lên vai cô và nói:
-Đã đến nơi thì vào trong thôi Thu nhỉ.
Biết là không còn đường lùi, Thu đành lẫm lũi dắt xe bước theo sau anh công an khu vực đi vào bên trong cửa hàng. Cuộc kiểm tra và kiếm kê mất đúng một buổi sang, đoàn kiểm tra thống kê được HTX mua bán đã đầu cơ tích trữ 250 quạt con cóc, 815 bánh xà phòng 72%, 1500 mét vải phin nõn cùng hàng trăm xô nhựa, chậu nhựa. Đặc biệt trên gác xép, đoàn kiểm tra phát hiện sáu thùng xích líp và 300 đôi lốp xe đạp, tất cả đều có xuất xứ từ nước ngoài, đây là lô hàng mà Thu và lão Hoán phải xuống tận Hải Phòng mua của các thủy thủ tàu viễn dương. Với số lượng hàng khá nhiều và giá trị kinh tế rất lớn, Thu bị công an đọc lệnh bắt khẩn cấp vì tội buôn lậu và đầu cơ tích trữ. Cô bị xích tay đưa lên xe xít đờ ca của công an chạy thẳng về tạm giam ở Hỏa Lò. Chủ mưa của các phi vụ đầu cơ và buôn lậu là lão Hoán đã kịp cao chạy xa bay, giờ đây một lần nữa Thu lại phải đối mặt với khó khăn của đời mình.
Bước vào phòng tạm giam, dù đang buổi trưa nhưng phòng hơi tối, đang chưa biết ngồi đâu vì trong phòng có hơn hai mươi can phạm nhìn mình chăm chú, Thu bỗng nghe thấy một giọng nói vang lên;
Con kia tội gì mà vào đây, đã được học luật chưa mà đứng trơ ra đó?
Lúc này Thu mới nhìn rõ, phía gần cửa sổ có một mẹ chắc là trùm ở đây đang ngồi chễm chệ, vây quanh mụ này là mấy tay chân thân tín. Thu mạnh dạn bước tới chào, khi bốn mắt nhìn nhau thì cả hai đều kinh ngạc. Người ta nói “oan gia ngõ hẹp” quả không sai, con mẹ đầu gấu đang làm đàn chị của phòng tạm giam này, không ai khác chính là Minh sư tử, trùm phe chợ Cửa Nam năm nào. Biết mình rơi vào chuồng Hổ còn nguy hiểm hơn vụ đánh lộn năm xưa, Thu chủ động tháo luôn chiếc nhẫn có trọng lượng hai đồng cân vàng đang đeo trên tay và đôi hoa tai đưa cho Minh sư tử và nói:
-Chuyện năm xưa chỉ là sự hiểu lầm, hôm nay em mới vào chưa thuộc luật, có gì em mong chị lượng thứ.
Cầm chiếc nhẫn và đôi hoa tai trên tay, khuôn mặt Minh sư tử bắt đầu giãn ra. Sau khi nghe Thu kể hết mọi việc, Minh sư tử nói ngay; Mày đúng là con có bản lĩnh, năm xưa tao chỉ nghĩ mày làm phò mà không làm phe được. Ai ngờ mày không làm phe mà là trùm buôn lậu, hơn bọn phe như tao một bậc rồi. Cất số nữ trang đi, Minh sư tử mới bày cách cho Thu phải trả lời như thế nào khi đi cung. Nhờ có Minh sư tử bảo lãnh nên Thu không bị lũ buôn lậu, đánh ghen, móc túi đang bị giam cùng phòng gây khó dễ.
Cả đêm hôm đó Thu không làm sao ngủ được, trong lòng cô chỉ thương hai đứa trẻ ở nhà không biết đã được ăn uống và chăm sóc như thế nào. Như hiểu được nỗi lòng của Thu, chính người cán bộ công an đã hóa thân vào vai người đồng nát hứa sẽ kiểm tra việc chăm sóc hai đứa trẻ và thu xếp cho Thu được tại ngoại sớm, với điều kiện cô phải thành thật khai báo giúp cơ quan công an sớm tóm được kẻ chủ mưu là lão Hoán.
-----------
Đang họp giao ban với các chuyên gia Liên Xô ở Vũng Tàu, Thịnh nhận được tin sét đánh. ông giáo Thanh sau một trận nhậu giao lưu với mấy tay cán bộ của Sở giáo dục Thành phố, trên đường về chắc do rượu đã ngấm lên ông bị lạc tay lái và đâm vào cột điện ngay cách nhà có 200 mét. Dù được đưa ngay vào bệnh viện nhưng vẫn không qua khỏi. Đám tang của ông giáo Thanh được tổ chức khá trọng thể, chỉ có một điều khiến Thịnh băn khoăn, lúc còn sống, bố anh luôn mong ước sau này nếu trăm tuổi sẽ được về nằm trên cánh đồng quê hương bên cạnh tổ tiên. Quê nội và quê ngoại của Thịnh đều ở Văn Giang, Hưng Yên và cách Hà Nội không quá xa. Vì điều kiện đi lại còn khó khăn lại bận công việc, cuối cùng nghĩa trang Bình Hưng Hòa là lựa chọn khả dĩ nhất.
Từ ngày chồng ra đi đột ngột, bà giáo Thanh già hẳn đi, sống một mình lủi thủi trong căn nhà rộng lớn, hơn ai hết bà được nếm trải sự cô đơn. Nhiều lúc bà tự hỏi, có phải do ngày đó ông bà đã không dám nhận thằng Liên Xô là cháu nên bây giờ mới bị quả báo. Bà có hai đứa cháu mà như không, con bé Bạch Dương mỗi tháng cũng chỉ được bố mẹ cho ghé qua thăm bà nội một đến hai lần. Hễ có chút thời gian rảnh, vợ Thịnh lại đưa con sang nhà bố mẹ đẻ chơi. Chính vì vậy mà đứa trẻ quấn qu‎ít ông bà ngoại hơn so với bà nội. Lúc còn sống, bà và ông giáo Thanh đều có ước muốn sau này được trở về mảnh đất chôn nhau cắt rốn. Nhưng khi thấy Thịnh không thực hiện di nguyện của cha mình, bà giáo Thanh biết rằng ngày trở ra Bắc còn xa mịt mù.
 
Tống Giang

Tống Giang

Thường Dân
Joined
4 April 2019
Bài viết
15
Reaction score
0
Phần 8
Giữa trưa nắng chang chang, thằng Liên xô gánh hai thùng nước đầy về nhà đổ vào thùng phuy chứa nước trong bếp.
Nó hồ hởi nói với mẹ:
-Con vừa lấy nước xong thì máy tắc, bây giờ mọi người vẫn xếp thùng thành hàng dài ở ngoài đó.
Thu nói với con trai:
-Thôi ngồi nghỉ cho mát đi con, làm suốt sang rồi.
Ngồi trước quạt được 15 phút, thằng Liên Xô lại xách chiếc rổ sồng đi xúc cua cá ngoài hồ. Thu nhắc con trai ở nhà cho đỡ nắng, nó bèn nói; mẹ không biết, giữa trưa nắng nóng, cua cá mới ngoi lên mặt nước nhiều, con tranh thủ một chút rồi về.
Biết tính con nên Thu đành kệ cho nó được làm theo sở‎ thích, quả thật mỗi lần thằng Liên Xô đi xúc cua cá về, hôm đó cả nhà lại được bát canh cua nấu rau đay và đĩa tép rang với khế. Có hôm nó còn câu được đầy một chậu nhựa cá săn sắt, loại cá này vừa bé lại tanh, nhưng Thu chịu khó moi ruột, rửa sạch và rán giòn cho thêm chút ớt bột vào, hai mẹ con cũng đỡ tiền mua thức ăn vài ngày. Thằng Hải Kim còn bé nên chỉ ăn cơm canh và quả trứng rán cũng xong bữa. Thằng Liên Xô giờ đây đã thành thiếu niên cao lớn, nó đỡ đần việc nhà rất nhiều cho Thu. Dù động viên con chịu khó học hành, nhưng sau hai lần đúp nên mới học đến lớp 4, cu cậu đã ở nhà phụ mẹ bán hàng nhất quyết không đi học nữa do xấu hổ với bạn bè.
Nghỉ trưa một chút cho đỡ mệt, Thu cũng bắt đầu dọn hàng ra bán buổi chiều. Buổi sáng cô bán bún ốc nên phải dậy từ 5 giờ sáng để chuẩn bị, bán hết hàng cũng tầm trưa, đến 15 giờ Thu lại quay ra bán nước ngay cửa nhà, ngoài thuốc lá, trà chén, cô bán kèm thêm chút lạc luộc và rượu gạo. Cuộc sống tuy vất vả, nhưng ba mẹ con vẫn nương tựa vào nhau mà sống. Ngày trước, nhờ đang nuôi hai con nhỏ nên Thu được tòa án tuyên phạt 30 tháng tù và cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 2 năm. Trở về nhà sau thời gian tạm giam, Thu bắt đầu làm lại với hai bàn tay trắng, mọi hàng hóa phi pháp cũng như tiền bạc đều bị tịch thu sung công quỹ. Cứ ba tháng một lần, Thu phải viết báo cáo và tới cơ quan công an trình diện, thấm thoắt thời gian thi hành án cũng đã xong.
Vừa dọn hàng xong, mấy bác xích lô, sửa xe đạp đã ghé vào quán, sau khi gọi chén nước trà nóng, họ vừa hút thuốc lào sòng sọc vừa bàn chuyện thời sự. Thu nhận thấy, điểm chung nhất của các vị khách hàng là màu áo lính đã bạc màu và sờn rách. Chính ông Hải, vốn là một người lính trở về từ chiến trường miền Nam, hiện làm nghề sửa xe ngay gần chỗ Thu bán hàng hay ngâm nga câu thơ tếu:
“Đầu đường đại tá bơm xe
Cuối đường trung tá bán chè đỗ đen
Ngoài đường thiếu tá ê kem
Trong làng đại úy thổi kèn đám ma
Thượng úy thì đi buôn gà
Trung úy về nhà theo đít con trâu
Hỏi chàng thiếu úy đi đâu
Ba lô lộn ngược nhẩy tầu Bắc Nam".​
Do bù đầu với công việc và chăm con nên Thu không có thời gian nghe đài đọc báo, chính quán nước buổi chiều đã đem lại cho cô nhiều thông tin quan trọng, từ chuyện Trung Quốc đánh chiếm đảo Gạc Ma của Việt Nam hồi đầu năm, đến chuyện biểu tình ở các nước XHCN. Không hiểu sao ngày đó các thông tấn xã vỉa hè lại phát triển rất mạnh, nguồn tin tức thì đủ các thể loại thượng vàng hạ cám. Thu bán hàng đến tận tối mịt thì nghỉ, ăn tối xong nhiều hôm thằng Liên Xô lại xin phép mẹ chạy sang nhà hàng xóm xem nhờ ti vi. Dù không nói ra, nhưng Thu cũng đang cố dành dụm tiền, cô hy vọng cuối năm sẽ mua một chiếc ti vi Neptune để buổi tối hai đứa con không phải đi xem nhờ. Dự định là vậy, tuy nhiên phải đợi hai con lợn xuất chuồng, lúc đó Thu mới thu xếp được món tiền để mua ti vi. Hàng ngày việc lấy bèo, nấu cám cho lợn ăn, hay dọn dẹp tắm rửa cho hai con lợn đều một tay thằng Liên Xô đảm nhận. Nhiều lúc nhìn con, Thu không khỏi xót xa, từ một thằng bé trắng trẻo bụ bẫm ngày nào, giờ đây nó cao lêu đêu và đen nhẻm, người thì gầy đét. Có chăng chỉ còn chiếc kính cận nó đeo trên mắt là có hơi hướng gợi nhớ đến người xưa. Nhưng mối tình xưa cũ đó cũng như sương khói mờ nhân ảnh rồi.
------------
Đầu giờ chiều Thu dặn thằng Liên Xô; Con nhớ trông hàng cẩn thận và không được bán chịu nhé, thằng Liên Xô gật đầu và dọn hàng cho mẹ. Thu dắt thằng cu bé ra trạm xá để tiêm chủng theo lịch, hai mẹ con ra đến đầu ngõ thì có hai chiếc xích lô đi vào, Thu vội bế con đứng nép bên cạnh cho xích lô đi qua, trời nóng nhưng cả hai chiếc đều che mui và bịt kín phía trước bằng tấm nylon. Trên đường từ trạm xá về, Thu mua cho con trai que kem mút để dỗ cu cậu nín sau vụ tiêm ở tay.Hai mẹ con về đến nhà, Thu thấy trong nhà lố nhố người đứng kẻ ngồi còn thằng Liên Xô thì đang dựa lưng vào tường mím chặt môi.
Thu bước vào nhà chưa kịp hiểu chuyện gì, bỗng tiếng người phụ nữ đang ngồi ở mép giường vang lên; May quá hai mẹ con đã về rồi, tiện đây chị có chuyện muốn trao đổi cùng em, nói xong người phụ nữ đứng lên cầm tay Thu cùng ngồi xuống với mình. Khi cả hai ngồi xuống, người phụ nữ nói; các con đã chào cô Thu chưa, tiếng mấy cô con gái chào lí nhí.
Thu ngồi xuống mà hoang mang không thốt lên lời, người phụ nữ đến chơi không báo trước vốn chẳng xa lạ gì với cô, bà ta chính là vợ của lão Hoán, không hiểu sao hôm nay bà ta và cả ba cô con gái kéo đến nhà Thu làm gì? Đã ba năm kể từ ngày lão Hoán ôm tiền vàng bỏ trốn, Thu cũng bặt tin lão từ đó. Như đoán được suy nghĩ của Thu, người phụ nữ ngọt nhạt nói; thật ra chị và anh Hoán bén duyên vợ chồng và có với nhau ba mặt con rồi, nhưng anh Hoán nhà chị luôn khát khao muốn có mụn con trai để sau này còn có đứa chống gậy và nối dõi tông đường, việc em sinh được một đứa con trai cho chồng chị đúng là một tin vui. Nói đến đây, vợ lão Hoán lôi trong chiếc túi nhỏ ra gói kẹo xanh đỏ đưa cho thằng cu bé, nhìn thấy kẹo là cu cậu cười tít mắt, chạy ra lễ phép khoanh tay xin và cầm ngay lập tức.
Người phụ nữ vẫn khẽ khàng nói tiếp; Mấy tháng trước anh Hoán đã trở về rồi, nhưng vì anh nhà chị vấn vương đến thằng cu con nên mấy mẹ con chị quyết định đưa anh‎ sang đây để gần gũi với con trai của mình. Trước sự kinh ngạc của Thu, đứa con gái lớn của lão Hoán mới đẩy chiếc xe lăn từ dưới bếp đi lên. Do lúc mới bước vào nhà, Thu bị bất ngờ và cuốn theo câu chuyện nên cô không kip nhận ra sự có mặt của lão Hoán. Mới có ba năm nhìn lão Hoán già và ốm yếu đến mức Thu không nhận ra, lão bị liệt một bên người, rớt dãi chảy lòng thòng nhìn phát tởm. Miệng lão ú ớ muốn nói mà không thành lời, mụ vợ lão bèn đẩy xe lăn của lão ra gần chỗ Thu và thằng cu con.
Mụ vợ ghé xuống sát tai chồng và nói như quát:
-Thế là ông toại nguyện rồi nhé, từ nay ông được sống cùng với thằng con trai của ông, mấy mẹ con tôi sẽ tự rau cháo nuôi nhau.
Trước khi đi, mụ vợ lão Hoán đưa Thu một xấp tiền được bọc trong chiếc khăn mùi xoa cũ rồi nói; Mấy mẹ con chị đã quyết định bán nhà rồi vào Nam sinh sống, đây là phần mà ông chồng chị được hưởng, em cầm lấy mà lo thuốc men và chăm sóc cho lão‎ nhé.
Thấy vợ và mấy con vịt giời theo cách gọi của lão khi xưa chào mình và bỏ đi, lão Hoán chỉ ú ớ không thành tiếng trong miệng. Nước mắt lão chảy dài xuống khuôn mặt nhăn nheo. Thằng cu con chạy lại ngó nhìn mặt lão và chạy ra nói với Thu; Mẹ ơi kinh quá.
----------
Từ ngày có lão Hoán về chung sống, Thu lại vất vả hơn trước. Mọi việc vệ sinh cá nhân hay tắm rửa cho lão, đều mình tay Thu đảm nhận. Dù rất ghét lão Hoán, khi xưa hay bắt mình ra cửa ngồi trông xe máy, nhưng thằng cu Liên Xô cũng xúm vào khiêng lão Hoán từ xe lăn sang chậu nước giúp mẹ minh. Lão Hoán tuy ốm đau nhưng lại hay nổi máu ghen, ngồi trong nhà mà nghe thấy Thu cười nói với đàn ông, lão sẽ với tay lấy ấm chén hoặc chiếc cặp lồng ném ra cửa.
Những lúc như vậy, Thu liền quay vào trong nhà quát to:
-Thế ông có muốn tôi chở về trả cho vợ con ông không?
Nghe thấy thế, lão Hoán lại trào nước mắt và ú ớ trong miệng.
Tuy ốm đau bệnh hoạn nhưng lão còn thêm phần tai quái, dù không còn đủ sức mà quan hệ vợ chồng, nhưng cứ đến nửa đêm, lão lại thò cánh tay không bị liệt vào người Thu mà cấu véo khắp và bóp. Bực mình vì không được ngủ yên, Thu trải chiếu nằm ngay dưới nền nhà, còn hai đứa nhỏ nằm trên gác xép. Nhiều hôm đang ngủ, bỗng thấy người mình ướt sũng, giật mình tỉnh giấc, cô thấy mùi khai nồng nặc bốc lên. Hóa ra lão Hoán nửa đêm buồn đi tiểu, dù có thể lấy cái bô để ngay đầu giường, nhưng lão ngồi trên giường và đái xuống chỗ Thu đang nằm. Vừa dọn sạch vũng nước đái của lão Hoán Thu vừa nghĩ; đúng là nghiệp chướng. Hầu hạ lão Hoán được gần một năm, lão lại lên cơn co giật, lần này lão liệt giường liệt chiếu và nằm thoi thóp mà không cử động được, do nằm nhiều hầu như toàn bộ phần lưng và mông của lão bắt đầu lở loét. Sau nhiều tuần nằm bất động, lão Hoán bắt đầu mở mắt ra nhìn xung quanh. Không biết đầu óc lão đang nghĩ gì khi hoàng hôn cuộc đời đã dần buông.
Kể từ hôm xách ba lô tiền vàng bỏ trốn, lão vào tận Con Cuông, một huyện miền núi heo hút của tỉnh Nghệ Tĩnh. Chính trong những lần đi buôn trâu, lão đã dan díu với một người phụ nữ dân tộc Thái ở đây, họ có với nhau một người con gái, chui rúc ở nơi hẻo lánh này, lão Hoán tin chắc công an không thể tìm ra được mình. Sống tại nhà người vợ hờ được hơn hai năm thì lão bị tai biến, vợ hờ của lão cũng đã mua gà, mua dê và mời thầy mo về cúng thần linh nhưng không ăn thua.
Nhận thấy bệnh tình của lão ngày càng xấu đi, người vợ dân tộc này đã nhờ người khiêng võng đưa lão ra đường tỉnh lộ, hai mẹ con người phụ nữ dân tộc đã vẫy được xe tải quá cảnh từ Lào về Việt Nam. Họ khiêng lão lên thùng xe và chở về Hà Nội theo địa chỉ ghi ở chứng minh thư, lúc tìm được đúng đến nhà lão ở làng Khương Thượng. Người vợ hờ đã nói với vợ con lão; mình đã cưu mang cho lão gần ba năm rồi, bây giờ là lúc lão cần trở về với gia đình. Mặc cho vợ con lão Hoán tròn mắt vì kinh ngạc, người phụ nữ dân tộc Thái cùng con gái mình vẫy xích lô ra bến Kim Liên cho kịp bắt xe về quê. Lão Hoán được vợ con chăm sóc trong vài tháng, họ cũng gọi cả bác sĩ đến nhà châm cứu bấm huyệt, tuy nhiên vị bác sĩ cũng nói; bệnh tình của lão chỉ có thể duy trì tình trạng như vậy thôi. Sau khi bàn bạc cùng nhau, vợ con lão Hoán đã thuê xích lô chuyển lão đến nhà Thu, chiêu này họ học theo cách của cô vợ hờ người dân tộc Thái của lão Hoán.
---------
Thấy lão Hoán nằm thoi thóp mà chưa chết được, mọi người khuyên Thu mời sư thầy về tụng kinh niệm Phật để lão ra đi cho mát mẻ. Hôm sư thầy đến tụng kinh cùng các bà vãi, đang nằm im lìm bỗng lão mở mắt ra rồi ứa lệ khi nghe thấy tiếng kinh sám hối. Sau ba ngày tụng niệm, lão Hoán không ăn, không uống mà vẫn chưa chết. Theo lời mấy bà vãi, do lão nghiệp chướng quá nặng nên mới vậy. Có người khuyên Thu trèo lên mái nhà dỡ ba viên ngói ra, để ánh mặt trời rọi xuống mặt lão Hoán, có vậy lão mới rũ bỏ được bụi trần. Nghe mọi người mách vậy, thằng Liên Xô vội chạy sang nhà hàng xóm mượn thang, nó nhanh nhẹn trèo lên dỡ mấy viên ngói đúng vị trí mặt ngay lão Hoán, có lẽ thấu hiểu nỗi khổ của mẹ mình nên nó muốn lão nhanh chết cho mọi người đỡ khổ. Không biết do các buổi cầu kinh tụng niệm, hay việc dỡ mấy viên ngói mà sau đó vài ngày, lão Hoán đã về với ông bà tổ tiên của lão.
Đám tang của lão Hoán thiếu vắng bà vợ và mấy con vịt giời, theo cách gọi của lão khi còn sống, dù đã nhờ người hỏi han nhưng Thu không thể liên lạc được họ. Ít ra lão Hoán cũng được ngậm cười nơi chín suối, khi đưa lão xuống nghĩa trang Văn Điển, thằng cu Hải Kim chít khăn tang và chống gậy theo sau quan tài, đúng như tâm nguyện muốn có thằng cu chống gậy và nối dõi tông đường.
Hôm làm cơm cúng 100 ngày cho lão Hoán, trong lúc Thu đang lúi húi trong bếp, bỗng có tiếng gọi to ngoài cửa:
-Cô Thu ra nhận thư nhé.
Thu rút phích bếp điện rồi chạy lên nhà nhận thư, thoáng nhìn bức thư, cô giật mình thảng thốt.
Còn nữa
 
Tống Giang

Tống Giang

Thường Dân
Joined
4 April 2019
Bài viết
15
Reaction score
0
Phần 9

Sau cơn mưa hồi chiều, Sài Gòn chính thức bước vào mùa mưa, tiết trời dịu mát hơn nhiều so với mấy tuần trước đó. Cơm tối xong, Thịnh ra sân hút thuốc để thư giãn, làn khói thuốc mờ ảo qua đôi mắt kính cận dày cộp mà Thịnh đang đeo. Bà giáo Thanh bê đĩa dưa hấu ra chiếc bàn đá kê ở giữa sân, hai mẹ con ngồi ăn tráng miệng, thấy Thịnh trầm tư suy nghĩ, bà giáo Thanh khẽ hỏi con trai;

Việc đã đến cơ sự này, bây giờ con tính sao?

Thịnh ngước lên nhìn mẹ rồi nói; con đã nhờ bạn bè dò hỏi tin tức rồi nhưng vẫn bặt vô âm tín, với lại họ muốn giấu thì mình cũng đành chịu thôi chứ biết làm sao được. Thịnh nói tiếp; tuần sau con ra Hà Nội, sau đó sẽ bay sang Nga công tác 2 tuần, khi nào về con sẽ quyết định. Biết tính con trai nên bà giáo đành nén tiếng thở dài mà không hỏi gì thêm. Hơn 10 giờ đêm, nhìn từ cửa sổ trên phòng ngủ ở tầng 2 xuống, bà giáo Thanh vẫn thấy con trai ngồi im lặng bên chiếc bàn đá. Dưới ánh đèn cột từ xa hắt lại, bóng của Thịnh im lìm bất động như bức tượng đá, chỉ có làn khói thuốc bay nhè nhẹ lên cao rồi tan biến vào màn đêm của Sài Gòn.

Cách đây 3 năm, mặc dù tình hình các nước XHCN đang biến động mạnh, nhưng không hiểu sao, Hoài vợ Thịnh vẫn xin một suất sang Liên Xô để làm nghiên cứu sinh, dù làm chuyên viên của Sở ngoại vụ thành phố đâu cần học vị tiến sĩ. Sau nhiều lần thuyết phục chồng chấp thuận, cuối năm 1988 Hoài đã dắt theo cả bé Bạch Dương mới 5 tuổi theo mẹ sang Liên Xô. Thời gian đầu, hàng tháng Thịnh vẫn nhận được thư của vợ gửi về, nhưng từ giữa năm 1989 thì bặt vô âm tín.

Sợ có chuyện chẳng lành, Thịnh đã nhờ bạn học cũ hiện đang sinh sống bên đó tìm hiểu giúp. Thư đi thư lại, cuối cùng Thịnh được biết vợ mình chỉ nhập học bên Liên Xô có 6 tháng, sau đó Hoài đã dắt bé Bạch Dương sang Cộng hòa Dân chủ Đức. Việc của Hoài, có vẻ mọi người bên nhà vợ đều biết trước, mỗi Thịnh không được biết. Thậm chí địa chỉ hiện nay của vợ con mình bên Đông Đức, dù nhiều lần Thịnh có hỏi nhưng bố mẹ vợ đều nói không biết.

Chiều hôm qua bố vợ Thịnh có gặp và nói; Bố mẹ hiện nay về hưu rồi, đồng lương hưu cũng có hạn và không đủ chi tiêu. Ngập ngừng một chút, ông nói tiếp với con rể là Thịnh; bố mẹ bàn nhau sẽ sửa lại căn nhà của vợ chồng con để cho thuê, ‎ í con thế nào? Nghe đến đây Thịnh chợt hiểu, căn nhà mười năm trước bố mẹ vợ đã tặng cho vợ chồng Thịnh khi mới cưới nhau, hiện nay nhà bên quận 3 đang có giá. Tiếng là tặng cho con gái và con rể, nhưng bố mẹ vợ Thịnh vẫn đứng tên, việc sửa nhà cho thuê chỉ là cái cớ để đuổi khéo Thịnh ra khỏi nhà.

Sáng hôm sau, Thịnh đã chuyển va ly quần áo và hai thùng sách của mình về nhà mẹ mình bên quận 9. Bà giáo Thanh thấy Thịnh khuân hành lí về nhà, không cần hỏi nhưng với dự cảm của người mẹ, bà biết hạnh phúc của con trai đang dần tan vỡ. Biết Thịnh bay ra Hà Nội công tác, bà giáo muốn nói với con trai về thằng Liên Xô, theo như bà nhẩm tính, năm nay nó cũng tròn 16 tuổi rồi. Khi nhìn thấy con trai chìm đắm trong suy tư về chuyện gia đình, bà giáo Thanh đành phải dằn lòng lại, dù sao thời điểm này cũng không thích hợp.

Sau chuyến công tác Liên Xô về, Thịnh cho bà giáo Thanh biết; Trước khi về hưu, chính bố vợ Thịnh đã tác động để con gái được quay trở lại Liên Xô làm luận án tiến sĩ, tuy nhiên đó chỉ là cái cớ để ra nước ngoài. Sang đến Liên Xô được vài tháng, vợ Thịnh đã dắt bé Bạch Dương sang Đông Đức ở nhà người quen. Khi bức tường Berlin sụp đổ, vợ con Thịnh đã hòa vào dòng người chạy từ Đông Đức sang Tây Đức. Bố mẹ vợ Thịnh đã nhận được thư và mấy ngàn DMark của con gái gửi về, chỉ có điều họ đã chặn mọi thông tin không cho Thịnh biết.

Sau 4 năm kể từ ngày tiễn vợ sang Liên Xô, cuối năm 1992 Thịnh chính thức gửi đơn xin li hôn vắng mặt ra toà án nhân dân quận 9, nơi Thịnh chuyển về sống với mẹ mình. Tình cảm vợ chồng hơn 10 năm đã bị mờ tan trước sự cám dỗ của cuộc sống vật chất nơi xứ người.

*

* *

21 giờ tối, Thu đang ngồi kiểm tra lại sách vở của thằng Hải Kim, bỗng có ánh đèn pha ô tô tải rọi thẳng hiên nhà, cô vội chạy ra mở cửa đứng đợi. Chiếc xe tải lùi đit vào gần cửa thì dừng lại, thằng Liên Xô mở cửa nhảy xuống từ bên ghế phụ.

Thấy con Thu mừng rỡ hỏi;

Sao hôm nay về muộn thế ?

Thằng Liên Xô làu bàu;

Hôm nay phải làm luật nhiều quá, từ Tân Thanh đến Đồng Bành, đã về tới cầu Đuống rồi cũng bị chặn lại làm luật.

Đạt là lái xe cũng xuống khỏi ca bin cùng thằng Liên Xô mở khóa thùng xe, bên trong chất đầy các thùng bia Vạn Lực của Trung Quốc, sau khi chất hết chỗ bia vào nhà, Đạt và thằng Liên Xô ra ngay quán phở đầu ngõ ăn tối. Chưa đến 5 giờ sáng, thằng Liên Xô và lái xe đã chạy về hướng đê La Thành, ở đó có một kho phế liệu đồng các loại, chúng được thu gom từ nhiều nguồn, có rất nhiều ca tút đạn các cỡ khác nhau.

Không riêng xe tải của Đạt và thằng Liên Xô, trên đường quốc lộ từng đoàn xe chất đầy phế liệu đồng từ Hà Nội nối đuôi nhau chạy lên Lạng Sơn rồi qua cửa khẩu sang Trung Quốc bán cho phía họ. Sau đó đoàn xe lại quay về Việt Nam khi đã chất đầy bia Vạn Lực, xe đạp Phượng Hoàng và đủ thứ hàng tiêu dùng khác nhau. Từ ngày đi phụ xe, thằng Liên Xô cũng rắn rỏi và già hơn trước tuổi rất nhiều so với lũ bạn cùng trang lứa.

Đưa thằng Hải Kim đến trường xong, Thu quay về nhà, cô bán bún và ghi sổ giao nhận khi các đại lí đến nhận bia. Loại bia này hiện đang làm mưa, làm gió ở Hà Nội và hầu khắp các tỉnh lân cận. Đám cưới, đám tang, hay bất kể cuộc tụ tập nào, nếu thiếu vài chai bia Vạn Lực, mọi người lại chê là nhạt miệng và kém sang. Chính vì vậy bia nhập về bao nhiêu, được tiêu thụ hết bấy nhiêu. Trừ mọi chi phí, mẹ con Thu cũng để dành được một khoản tương đối. Rút kinh nghiệm xương máu từ vụ vỡ quỹ tín dụng nhân dân năm 1989, hễ có tiền là Thu mua vàng cho vào ống bơ rồi đem chôn ngay dưới bếp cho chắc ăn. Hồi đó khi vợ lão Hoán dúi vào tay Thu xấp tiền được bọc trong chiếc mùi xoa, cô đã không động đến một đồng nào mà đem gửi tại quỹ tín dụng nhân dân với mục đích lấy tiền lãi trang trải cuộc sống.

Bẵng đi một thời gian, Thu nhớ mãi sáng hôm đó đi chợ về, cô thấy bà con đứng đông nghịt trước quỹ tín dụng nhân dân mà mình gửi tiền. Ghé vào hỏi han, Thu mới tá hỏa khi biết, các quỹ tín dụng nhân dân đều bị vỡ nợ, bản thân những người cầm đầu đã ôm tiền bỏ trốn. Của đau con xót, Thu choáng váng và lăn ra ốm mất hai tuần liền, tay trắng lại hoàn tay trắng, việc mua ti vi cho con cũng chỉ là ước mơ, vì ham lãi suất nên khi bán lợn,Thu cũng dồn hết tiền đem gửi cho quỹ tín dụng để lấy lãi. Từ sau lần đó, Thu đã thực hiện theo đúng câu “đồng tiền liền khúc ruột”

*****

Trong số khách quen hay ghé hàng Thu ăn sáng, uống trà chén khi rảnh rỗi có Đạt, cậu này vốn dân lái xe đường dài chạy tuyến Bắc Nam. Sau ngày mở cửa biên giới Việt Trung để giao thương, Đạt chuyển sang chở hàng tuyến Hà Nội – Lạng Sơn, công việc này nhanh có tiền mà không phải chạy quá xa như hồi trước. Đạt thấy thằng Liên Xô nhanh nhẹn tháo vát nên đã nhận nó làm phụ xe cho mình, công việc bê vác thì thằng LIên Xô làm rất khỏe và nhiệt tình. Từ khi thằng Liên Xô đi phụ xe, Thu đã nảy ra việc nhận làm tổng đại lí bia cho khu vực cầu Giấy, đường Láng, Ngã Tư Sở và khu Thanh Xuân. Khi bia được chuyển về nhà, Thu lại móc nối với các chủ vựa sắt thép phế liệu trên đường đê La Thành để thu gom các loại đồng phế liệu, mặt hàng đang rất được phía Trung Quốc ưa chuộng và trả giá cao nhờ vậy mà chuyến hàng nào cũng có lãi.

Thấy con vất vả sớm khuya, Thu hay động viên con;

Thôi con chịu khó vất vả một thời gian nữa, nếu chán làm phụ xe thì đi học nghề rồi mẹ mở đưa vốn mà mở cửa hàng. Nghe mẹ nói vậy, thằng Liên Xô cũng chỉ biết gãi đầu gãi tai vì nó không biết mình thích làm nghề gì. Nhiều lúc thấy mẹ hỏi nhiều quá, nó nói với Thu; Hay là con sắm xe xích lô, rồi hành nghề như ông ngoại ngày xưa. Nghe con nói vậy, Thu rớm nước mắt vì nhớ tới một thời cơ cực của cha mẹ ngày trước. Sợ mẹ buồn, thằng Liên Xô bèn an ủi; Thật ra bây giờ xe xích lô lọng vàng để chở khách du lịch và phục vụ các đám ăn hỏi thôi, không phải chở hàng vất vả như ông ngoại hồi xưa đâu mà mẹ đã lo.

*****

Bên cạnh Đạt, ông Minh cũng là khách thường xuyên đến ăn sáng tại quán của Thu, nghe nói trước khi về hưu ông Minh là trưởng ty văn hóa của tỉnh Hà Bắc, ông mới chuyển về khu này được vài năm. Ông Minh góa vợ đã lâu, ông có hai người con đều thành đạt. Cô con gái lớn của ông bằng tuổi Thu, hiện đang công tác trong ngành ngân hàng. Gia đình con gái ông đã chuyển vào miền Nam sinh sống được gần mười năm, cậu con trai thứ hai cũng lấy vợ và ở trên phố.

Về hưu lại sống một mình nên rảnh rỗi, các buổi sáng sau khi đi tập thể dục xong, ông Minh lại ghé quán Thu làm tô bún, sau đó ông đi mua tờ báo về đọc. Chiều đến, ông Minh lại ra quán nước của Thu gọi ấm trà rồi tán chuyện với mấy ông sửa xe, xích lô hay ngồi quán. Sau này thành chỗ thân quen, ông Minh và Thu hay tâm sự với nhau khi quán vắng khách. Chính ông đã cho Thu vay số tiền tương đối lớn khi cô có ý ‎ định nhập bia Vạn Lực của Trung Quốc về phân phối.

Dù biết ông Minh cũng xấp xỉ tuổi của bố mẹ mình, nhưng Thu nhận thấy, so với lũ đàn ông mà cô từng quen biết, ông Minh dù có tuổi nhưng vẫn là người nho nhã lịch duyệt và có phong độ hơn hẳn. Điều cô cảm thấy còn vướng mắc chính là thái độ của thằng Liên Xô và mấy người con của ông Minh, không biết bọn họ sẽ phản ứng như thế nào.

Thấu hiểu được tâm sự của Thu, ông Minh nói;

Em yên tâm, anh sẽ nói chuyện nghiêm túc với con trai, con gái, con dâu lẫn con rể anh để đả thông tư tưởng chúng nó. Thằng Liên Xô cũng đoán được tình ‎cảm của hai người, nó trở lên lầm lì và ít nói hơn hẳn, cứ thấy mặt ông Minh là nó tránh đi chỗ khác, việc này làm Thu cảm thấy vô cùng khó xử.

Năm nay Thu mới ngoài 30 tuổi, việc cần có một bờ vai nương tựa trong cuộc sống, hay có người để tâm sự mỗi khi đêm về cũng là khát khao cháy bỏng của cô. Ngày xưa Thu mới chớm yêu bố thằng Liên Xô đã phải chia xa, đến bố thằng Hải Kim cũng vậy, mỗi lần thỏa mãn xong lão Hoán lại biến về với vợ con, khi sinh thằng hải Kim, lão cũng chưa một lần ở lại thức đêm giúp Thu chăm con. Nghĩ đến lão Hoán là Thu lại thoáng rùng mình.

*****

Trưa nay ngồi suy nghĩ, Thu chợt nhớ đến bức thư dạo nào. Mở khóa tủ, cô lấy ra bức thư có con tem in cảnh lâu đài khá đẹp của châu Âu, phần người gửi có ghi tên Nguyễn Thị Thanh Hoài địa chỉ thành phố Dresden Cộng Hòa Dân Chủ Đức. Trong thư người phụ nữ giới thiệu vắn tắt là vợ của Thịnh, điều này khiến Thu vô cùng bất ngờ và sửng sốt. Hoài cũng cho Thu biết, trước khi lấy Thịnh, Hoài không biết chồng mình đã có con ngoài giá thú là thằng Liên Xô, gia đình Thịnh cũng không biết Thu đang sống ở đâu ngoài Hà Nội.

Bức thư được viết kín 8 trang giấy, trong đó người phụ nữ nhận là vợ Thịnh đã giãi bày mọi nỗi niềm tâm sự. Cuối thư Hoài khuyên Thu nên cho thằng Liên Xô vào Sài Gòn rồi xuống Vũng Tàu nhận cha, Hoài cũng ghi rõ địa chỉ cơ quan Thịnh ở Vũng Tàu cho mẹ con Thu được biết. Giữa lá thư, Hoài có kẹp vào 500 DM để mẹ con Thu có thêm chút tiền làm lộ phí vào Nam. Cho đến bây giờ, Thu cũng không hiểu làm sao Hoài lại có địa chỉ của mẹ con cô, còn việc Hoài phát hiện ra thằng Liên Xô là con rơi của Thịnh cũng khiến Thu ngạc nhiên.

Đang miên man theo dòng suy nghĩ, Thu ngửi thấy mùi nước hoa quen thuộc, cô quay lại đã thấy ông Minh tay cầm bó hoa đi vào nhà.

Ông Minh hồ hởi nói với Thu;

Anh phải lên tận Quảng Bá mới mua được bó hoa Dơn này đó, em đưa lọ pha lê tiện tay anh cắm hoa luôn. Nhà vắng người vì cu Hải Kim đi học chưa về, thằng Liên Xô đang nhập hàng bên kia biên giới. Tự nhiên Thu muốn nghỉ buổi bán hàng chiều nay.

Như đọc được suy nghĩ của Thu, ông Minh nhanh nhẹn ra chốt
 
Tống Giang

Tống Giang

Thường Dân
Joined
4 April 2019
Bài viết
15
Reaction score
0
Phần 10

Mấy hôm nay dù cơn bão số 8 đã tan, nhưng ảnh hưởng của hoàn lưu bão nên mưa vẫn xối xả, nhìn nước ngập ngoài ngõ đã mấp mé sát hiên nhà, Thu vội lấy tấm ván gỗ chặn ngay ngoài cửa để xe máy chạy qua không làm tràn nước vào nhà.

Thấy con trai cầm ô lội mưa ra đầu ngõ, Thu gọi với theo;

Mưa gió này còn đi đâu vậy con?

Nghe thấy mẹ hỏi, Hải Kim quay lại nói; con ra đầu ngõ đổi băng video về tối xem cho đỡ buồn.

Ba mẹ con ăn tối xong thì trời cũng ngớt mưa, cu Hải Đăng luôn miệng hỏi, sao bố lâu về thế mẹ? miệng hỏi thế nhưng khi thấy anh trai bật video phim chưởng bộ, cu cậu lại chạy ra ngồi trước tivi chăm chú xem. Dọn dẹp xong, Thu cũng ngồi xem với hai con, mấy người hàng xóm đã quen lệ, tối nào cũng sang xem nhờ. Nhiều nhà trong xóm có tivi, nhưng mọi người vẫn thích sang nhà Thu xem, vì cô là người đầu tiên mua tivi JVC 21 inch màu, xem vừa nét lại có âm thanh rõ ràng.

Nhìn trước cửa nhà lênh láng nước, Thu lại nhớ tới hồi sinh thằng Hải Kim năm 1984. Năm đó cũng do ảnh hưởng của mưa bão mà khắp Hà Nội ngập trong biển nước, chính Thu đã phải bế thằng Hải Kim cùng thằng Liên Xô ngồi trên gác xép suốt mấy ngày, dưới nhà đã ngập trong nước hơn một mét. Hồi đó nếu không có mấy phong lương khô cùng hơn chục gói mì miliket mà lão Hoán mua dự phòng, chắc mấy mẹ con chết đói. Lần sinh thằng cu Hải Đăng, có lẽ Thu cảm thấy ấm lòng nhất. vì người đưa Thu đến viện không phải là bố mẹ mình, lần duy nhất trong ba lần sinh nở, cô được chính cha của đứa bé đưa vào bệnh viện phụ sản và tự tay chăm sóc cho Thu suốt 3 ngày nằm viện. Có lẽ điều Thu băn khoăn duy nhất, là câu cửa miệng của dân gian “tam nam bất phú”. Việc thằng Liên Xô dọn ra ở hẳn bên ngoài khi Thu mang thai thằng cu Hải Đăng cũng khiến cô phiền muộn.

***

Sáng sớm tinh mơ, ông Minh đã đạp xe ra đầu phố mua phở cho hai mẹ con Thu, ông nói với cô;

Hai mẹ con dậy ăn sáng, chút anh đèo Hải Đăng đi nhà trẻ rồi về coi thợ sửa lại nhà cho đỡ ẩm mốc.

Nghe chồng nói vậy Thu ưng thuận ngay, chỉ còn vài tháng nữa là bước sang năm mới Đinh Sửu 1997. Thu nhẩm tính, tuổi 40 đã cận kề trong khi mọi việc vẫn còn nhiều dang dở. Thu san bánh phở ra chiếc bát bé cho con trai, sau đó cô dùng kéo cắt nhỏ bánh phở và chan nước dùng vào rồi đưa cu Hải Đăng tự xúc ăn. Vì Hải Kim phải đi học từ sớm nên Thu đưa tiền cho con trai mua quà sáng trên đường đến trường.

Nhiều lúc Thu cũng tự hỏi; sao mấy đứa con mình lại không được thừa hưởng gien từ bố chúng nó nhỉ. Thằng Liên Xô dù cận từ bé như Thịnh, nhưng ngoài cặp kính ra cu cậu không hề có điểm gì giống bố nó, học hành không qua được cấp một. Thằng Hải Kim thì ngược lại, dù mang dòng máu của lão Hoán trâu, nhưng suốt 6 năm học, hầu như năm nào nó cũng đạt danh hiệu học sinh giỏi, thậm chí còn được vào đội tuyển của trường đi thi học sinh giỏi cấp thành phố. Riêng cu Hải Đăng được yêu chiều nhất nhà vì thể trạng của nó không được tốt, trái ngược với bố nó là ông Minh, bước sang tuổi 65 nhưng còn khỏe mạnh và tráng kiện, nhiều thanh niên không chắc đã theo được.

Thấy ai khen mình vẫn trẻ khỏe, ông minh lại cười và nói;

Tuổi tác cũng chỉ là con số mà thôi.

*****

Bốn năm trước, khi nghe Thu báo tin mình đã mang thai, ông Minh mừng quá, ông đã tổ chức cuộc họp gia đình để thông báo cho con trai, con dâu, con gái và cậu con rể. Trong buổi hộ mặt đó, thấy không khí có vẻ căng thẳng, cậu con rể ông Minh hiện là quan chức ngành ngân hàng khẽ nói;

Chuyện này đúng là hơi bất ngờ, nhưng con nghĩ dù sao bố cũng đã có sự lựa chọn của riêng mình rồi, con sẽ ủng hộ bố.

Thấy chồng mình nói vậy, con gái ông Minh đứng bậy dậy nói gay gắt;

Bố tằng tịu với ai, con không cần biết, nhưng với con Thu thì không ổn, nó không chồng lại có hai đứa con, chứng tỏ loại đó không lương thiện gì, nó bằng tuổi con vậy mà bố định rước về làm mẹ kế, con không bao giờ chấp nhận, con nghĩ chắc gì cái thai đó là của bố. Thấy con gái nói vậy, ông Minh chỉ muốn cho nó cái bạt tai vì uất quá, nhưng ông cố kìm nén cơn giận và quay sang nhìn vợ chồng anh con trai xem chúng có suy nghĩ gì.

Thấy bố chồng nhìn mình, người con dâu vội nói ngay;

Việc này con cũng không có í kiến gì đâu, bố tham khảo chồng con là được. Thấy vợ nhắc khéo, anh con trai vội dụi tàn thuốc lá rồi thủng thẳng nói với bố mình;

Mẹ con mất cũng hơn hai chục năm rồi, bố gà trống nuôi con rồi suốt thời trẻ khỏe, bây giờ về già lại sống vò võ một mình không phải là điều hay. Con cũng mong bố tìm được một người đứng tuổi, tâm đầu ý hợp để nương tựa nhau lúc tuổi già, ai ngờ bố lại có con với người trẻ quá, rồi sau này lâm vào cảnh cha già con cọc, quả thật nhìn trước thấy bố như vậy, con không an lòng. Thuyết phục hai con không được, ông Minh quyết định bán ngôi nhà đang ở, sau khi chia cho hai người con một phần, phần còn lại ông Minh đưa cho Thu một nửa số tiền, nửa còn lại ông thuê thợ về xây thêm hai tầng và mua sắm nhiều đồ dùng gia đình như tivi, tủ lạnh.

Khi Thu sinh con trai, ông Minh đặt tên con là Hải Đăng. Sống với nhau thấm thoắt được 4 năm, Thu cảm thấy an lòng bên ông Minh, việc kiếm được một tấm chồng chu đáo và hào hiệp quả không dễ.

Ông Minh luôn dành thời gian để kèm cặp và phụ đạo thêm cho cu Hải Kim trong học tập. Tuy nhiên Thu vẫn canh cánh trong lòng chuyện thằng Liên Xô, khi biết ông Minh sẽ dọn về ở cùng mấy mẹ con, thằng Liên Xô nói ngay với Thu;

Dù bác Minh có xây thêm vài tầng cho rộng, con vẫn không thích sống chung nhà với người lạ. Mặc cho mẹ nhỏ to tâm sự lẫn van nài, thằng Liên Xô kiên quyết xách va ly ra khỏi nhà bắt đầu cuộc sống tự lập khi bước sang tuổi 21. Do chạy chở hàng tuyến Hà Nội - Lạng Sơn không còn kiếm được như trước kia, nó và lái xe đã chuyển sang chuyên chở vật liệu xây dựng cho các công trình. Nhu cầu xây dựng và sửa chữa nhà cửa đang tăng cao, công việc của thằng Liên Xô cũng bận tối mặt. Suốt mấy năm trời, nó chỉ ghé về qua nhà vào dịp tết, ăn với mẹ và hai đứa em được bữa cơm rồi lại mất hút.

Cũng may cho Thu, khi vắng thằng Liên Xô, mọi việc trong nhà được ông Minh sắp đặt chu đáo. Với mức lương hưu cao, cộng với khoản tiền tiết kiệm, ông Minh đỡ đần cho cô khá nhiều trong cuộc sống. Điều quan trọng nhất, hàng đêm Thu đã có người bầu bạn tâm sự và sẻ chia nhiều tâm sự thầm kín, cô không còn chịu cảnh cô đơn như hồi trước.

*

* *

Trong quán café tại một khách sạn hạng sang ngay trung tâm quận Nhất, Thịnh ngồi bên tách café mà lòng hồi hộp và bồn chồn, mắt luôn hướng ra phía cửa như mong chờ ai đó. Chiếc taxi dừng lại ngay sảnh, Hoài từ trong xe tự tin bước xuống, nhìn cô khá xinh đẹp, một vẻ đẹp đằm thắm của người phụ nữ được viên mãn đủ thứ. Nhìn thấy vợ cũ, Thịnh tiến lại phía Hoài và hỏi;

Em uống gì anh gọi, sao em không đưa Bạch Dương về cùng.

Vừa uống từng ngụm nước, Hoài khẽ giải thích; con bé vẫn đang phải đi học không nghỉ được, đến kì nghỉ đông em sẽ nói con về thăm bố và bà nội. Hoài rút trong túi xách ra xấp ảnh của Bạch Dương cho Thịnh xem, ngày lên máy bay Bạch Dương chỉ là cô bé 5 tuổi bây giờ con gáo Thịnh đã là một thiếu nữ xinh đẹp.

Hoài hỏi chồng cũ;

Cuộc sống của anh hiện nay thế nào?

Thịnh cho Hoài biết, anh đã lập gia đình được hai năm nhưng chưa có con. Lau cặp kính cận xong, Thịnh khẽ hỏi Hoài vì sao lại dắt con bỏ sang Đức suốt bao năm, khiến mình phải đi tìm. Hoài cho biết cô đã lập gia đình và có thêm một con gái, chồng cô là người Đức và rất yêu qu‎í Bạch Dương.

Hoài hỏi lại Thịnh, vậy anh muốn biết lí do em đưa con đi ra nước ngoài?

Bằng một giọng đều đều, Hoài cho Thịnh biết, ngày đó Sở ngoại vụ tổ chức cho cán bộ đi nghỉ dưỡng tại Vũng Tàu, vì muốn giới thiệu chồng mình với chị em làm cùng phòng, Hoài đã điện thoại cho Thịnh ghé khách sạn của đoàn đang nghỉ, suốt buổi tối giao lưu hôm đó có một người nhìn Thịnh chăm chú và không nói câu nào.

Không để Thịnh chờ lâu, Hoài nói tiếp;

Chị Thanh kế toán phòng em là người miền Bắc, lấy chồng xong hai vợ chồng vào Nam lập nghiệp, chắc anh không biết chị Thanh chính là lớp trưởng học cùng chị Thu, người yêu cũ của anh suốt 10 năm. Nghe vợ cũ nhắc đến Thu, Thịnh giật minh và hiểu ra vấn đề.

Hoài tiếp tục nói; nhà chồng chị Thanh cũng ngay trong khu mà chị Thu hiện đang sinh sống nên em biết địa chỉ, ngày anh lên đường sang Nga du học, theo lời chị Thanh kể lại người yêu cũ của anh đã chịu muôn vàn đắng cay vì mang tiếng chửa hoang, Hoài cũng cho Thịnh biết, cô đã gửi cho Thu một lá thư hồi còn ở bên Đông Đức.

Hoài nói đến đâu mặt Thịnh trắng bệch ra đến đó, nhìn thẳng vào đôi mắt của chồng cũ, Hoài nhấn mạnh; mọi việc về sau em không cần nói, anh đã biết hết rồi. Để mặc Thịnh ngồi chết lặng trong quán, Hoài bắt taxi về nhà bố mẹ đẻ.

Nghe Thịnh kể lại toàn bộ câu chuyện với vợ cũ, bà giáo Thanh mở tủ lấy ra chiếc hộp sắt đã cũ, bà đưa cho Thịnh bức ảnh thằng Liên Xô hồi bé và nói với con trai;

Thằng bé bây giờ cũng ngoài 20 tuổi rồi, nếu con ra Hà Nội công tác…., ngập ngừng giây lát bà giáo Thanh bồi hồi luyến tiếc;

Giá như khi còn sống, bố con không cố chấp và phản đối việc nhận cháu, chắc mọi chuyện sẽ không như bây giờ. Nghe thấy tiếng xe máy của vợ mình đi làm về, Thịnh cầm bức ảnh của thằng Liên Xô rồi đứng lên đi về phòng, bà giáo Thanh ra ngoài sân cầm giúp con dâu chiếc giỏ đựng thức ăn. Kể từ ngày Thịnh cưới Hạnh, một cô giáo mầm non, cuộc sống của bà giáo Thanh cũng đỡ buồn hơn trước, hiềm một nỗi hai vợ chồng vẫn chưa có tin vui.

*****

Sáng nay ông Minh lên UBND quận nghe nói chuyện về tình hình thời sự thế giới, ngoài ra báo cáo viên nói về thành công của đại hội Đảng lần thứ VIII. Trên đường về, chợt nhớ Thu rất thích ăn món chả nhái, ông Minh liền đạp xe vào trong làng Khương Thượng để mua. Kể từ ngày chung sống cùng Thu và chăm thằng cu Hải Đăng, hai đứa con ông không một lời hỏi thăm đến bố của mình, chỉ thi thoảng cậu con rể trong miền Nam hay cô con dâu có gọi điện hỏi đến ông cho phải phép. Nhà ông có lắp điện thoại bàn, vì muốn tránh cho các con khó xử khi gọi điện, lại gặp phải Thu nhấc máy, dù không có nhu cầu nhiều, ông vẫn sắm một con điện thoại Startac X để tiện liên lạc.

Dọn hàng xong cũng gần chưa, Thu chuẩn bị cơm nước để ông Minh và cu Hải Kim đi học về ăn cùng, Hải Đăng được gửi trường mẫu giáo đến chiều mới phải đón về. Do nắng nóng, liên tục có người chạy sang mua đá về pha nước giải khát. Ngày trước ông Minh mua cho mấy mẹ con chiếc tủ lạnh Saratop, hóa ra nó đem lại một nguồn thu nhập khá tốt, nhiều hàng chè đỗ đen luôn đặt trước Thu chạy đá từ hôm trước để có đá bán hàng. Tiếng điện thoại bàn vang lên, Thu nhấc máy nghe, cô đoán chắc mấy bà bán chè ngoài phố lại đặt thêm vài khay đá như mọi khi, hay thằng Liên Xô gọi về nhỉ, tuy không nói ra miệng, Thu luôn mong điện thoại của con trai lớn.

Hải Kim đi học về, vừa vào đến cửa, nó hốt hoảng khi thấy mẹ mình nằm ngất lịm bên chiếc điện thoại bàn đang tút dài.
 
Tống Giang

Tống Giang

Thường Dân
Joined
4 April 2019
Bài viết
15
Reaction score
0
Phần 11

Đang ngồi họp ở công ty, Thịnh nhận được điện thoại của mẹ mình từ Sài Gòn gọi xuống, giọng bà giáo Thanh vô cùng hốt hoảng;
Con xin nghỉ về ngay, nhà mình có chuyện rồi
Chuyện gì thế mẹ, Thịnh hỏi lại
Mẹ không biết đâu, con về đi mẹ sợ lắm….nghe mẹ nói vậy, Thịnh vội rời cuộc họp sớm kêu lái xe đưa mình về Sài Gòn luôn. Xe về đến nhà cũng gần trưa, mặc cho trời nắng chang chang, trước cửa nhà bà giáo Thanh có hàng chục người đang đứng chật kín giống như mấy nhà có xảy ra án mạng vậy. Thịnh lo sợ bước nhanh về cửa nhà, đám đông nhìn thấy Thịnh bèn xì xào bàn tán, vào nhà Thịnh thấy trong sân có mấy bác dân phòng, còn mẹ Thịnh ngồi trong nhà đang trao đổi với hai anh công an phường.
Qua câu chuyện Thịnh được biết, Hoàn vợ Thịnh tuy chỉ là cô giáo mầm non, nhưng cũng đứng ra cầm vài dây hụi chết với tổng số tiền huy động khá lớn. Mọi người tin vào Hoàn là người có nghề nghiệp đàng hoàng, chồng làm trong ngành dầu khí nên người nọ lại mách cho người kia.
Thời gian đầu mọi việc suôn sẻ, nhưng càng về sau số tiền quá lớn khiến Hoàn không kiểm soát được, đến khi người chủ hụi chính bất ngờ tuyên bố vỡ nợ và bỏ trốn, vợ Thịnh là người trực tiếp đứng ra huy động vốn nên phải chịu trách nhiệm, hoảng sợ vì nhiều người kéo đến cơ quan gây áp lực, sau đó họ kéo đến tận nhà, vợ Thịnh cũng đã âm thầm bỏ trốn. Khi biết tin vợ Thịnh bỏ trốn, những người bị mất tiền đã kéo đến nhà để lấy đồ xiết nợ, cũng may lực lượng công an và dân phòng đã có mặt kịp thời, nếu không mình bà giáo Thanh cũng đành bất lực.
Thịnh hỏi người công an;
Rốt cuộc vợ tôi huy động bao nhiêu tiền vậy?
Anh công an thông báo; hiện nay chúng tôi mới lấy lời khai của 50 người. Tổng số tiền, vàng mà vợ anh huy động cho 3 dây hụi là 750 triệu đồng và 100 cây vàng. Thịnh nhẩm tính, với giá vàng hiện nay là 512.000 đồng cho một cây vàng, vợ mình đã huy đồng được hơn 1,2 tỷ, một số tiền khá lớn để có thể chi trả giúp vợ vào thời điểm hiện nay.
Do quá hoảng sợ trước sự tức giận của các chủ nợ, bà giáo Thanh đã chuyển xuống Vũng Tàu sống cùng con trai, ngôi nhà ở Sài Gòn tạm thời khóa cửa để không. Sau khi tiếp nhận thêm hàng loạt đơn tố cáo, cơ quan công an đã phát lệnh truy nã vợ Thịnh tội danh “lạm dụng tín nhiệm nhằm chiếm đoạt tài sản và tội lừa đảo”.
Trải qua biến cố như vậy, bà giáo Thanh già đi trông thấy.
Nhiều lúc bà nắm tay con trai dặn dò như sợ Thịnh quên mất; Sau này nếu mẹ nằm xuống, con hay đưa bố mẹ về quê ở Hải Dương nhé. Thịnh gật đầu cho mẹ mình vui lòng, quả thật nhiều lần Thịnh hứa đưa bà về ngoài Bắc chơi nhưng bận công việc nên chưa thực hiện được.
Khi Thịnh chào từ biệt mẹ mình sang Nga công tác, anh cũng không ngờ đó là lần cuối hai mẹ con gặp nhau. Mới sang Nga được một tuần, Thịnh nhận được tin dữ từ Việt Nam báo sang; bà giáo Thanh đã qua đời sau một cơn đau tim.
Bà ra đi không một người thân bên cạnh, nhưng có lẽ điều an ủi duy nhất, lần này ông bà sẽ được trở về Bắc đúng như ước nguyện khi còn sống.
*
**
Tại bệnh viện phụ sản TW, Thu cùng con trai mình đang chuẩn bị đón chào thành viên mới của gia đình. Khi được thông báo, con dâu đã sinh được một bé gái nặng 3,2 cân, Thu và Liên Xô rất vui mừng. Lúc đón đầu tay cháu bé, mọi người trong viện không ai nghĩ bà nội lại trẻ đến vậy. Năm ngoái, khi Liên Xô dẫn cô người yêu về ra mắt và ngỏ lời muốn tổ chức đám cưới, Thu cũng đôi chút lưỡng lự, bởi cô mới có 41 tuổi trong khi bà thông gia cũng gần 80 tuổi, xét về tuổi tác, Thu còn kém tuổi ông anh lớn của Hân là người yêu của thằng Liên Xô.
Trong lúc còn đang suy tính xem có nên hoãn đám cưới của con trai không, Thu nhận thấy khi ngồi ăn cùng mọi người con bé Hân có dấu hiệu nôn khan…là một người mẹ, lại từng trải qua nhiều chuyện, sau bữa ăn, Thu đã cầm tay Hân khẽ hỏi;
Con đã có thai với thằng Liên Xô rồi phải không?
Hân nghe thấy mẹ người yêu hỏi vậy, bèn cúi đầu lí nhí thưa thật mọi chuyện. Cùng là phụ nữ, tự nhiên Thu nhớ lại cảnh ngày xưa mình mang thai thằng Liên Xô với muôn vàn đắng cay, cô đã an ủi Hân yên tâm tĩnh dưỡng lo cho cái thai trong bụng, đừng suy nghĩ nhiều quá.
Ngay tuần sau, Thu cùng con trai về Ninh Bình để gặp mặt nhà gái, đám cưới cũng được ấn định tổ chức luôn trong tháng, dù sao cô dâu cũng đang mang thai nên nhà gái vô cùng xúc động trước sự nhiệt tình của nhà trai, không giống như nhiều kẻ “bỏ của chạy lấy người”.
Hôm đến xin dâu, bà thông gia đã nắm tay Thu cảm động nói;
Nó là con út trong nhà nên có phần được nuông chiều, bây giờ nó thành con của bà, mong bà dạy dỗ cháu thêm. Phù rể cho Liên Xô không ai khác chính là cậu em trai, Hải Kim bây giờ đã thành sinh viên đại học sư phạm, khác với lão bố đẻ thấp lùn, Hải Kim cao lớn và có nhiều cô gái thầm yêu trộm nhớ nhưng anh chàng vẫn mải lo việc học hành, phấn đấu.
Lấy nhau xong, Liên Xô và vợ mình thuê cửa hàng để kinh doanh vật liệu xây dựng ngay đường Láng cho gần mẹ và hai em, dù rất muốn theo nghề lái xe, nhưng do cận nặng nên Liên Xô phải chọn con đường buôn bán. Tổ chức đám cưới cho con trai được trọn vẹn và chu đáo, nhưng trong lòng Thu vẫn canh cánh nỗi niềm, việc ông Minh xách va ly rời bỏ mẹ con cô từ mấy năm trước khiến Thu vô cùng hụt hẫng. Dù hết lời giải thích lẫn van nài, ông Minh vẫn quyết dứt áo ra đi.
Ngày đó Thu chở bé Hải Đăng đứng nhìn theo bóng ông Minh khuất dần trên cầu Long Biên, tự nhiên cô lại nhớ đến câu thơ ngày xưa từng đọc trong sách;
“Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?.”
***
Chính việc xảy ra từ 5 năm trước, trong lúc đang chuẩn bị các khay đá để bán, Thu nhận được điện thoại từ bệnh viện Nhi thông báo, cu Hải Đăng khi vui chơi ở nhà trẻ, do các cô mẫu giáo bất cẩn nên thằng bé đã ngã lộn nhiều vòng từ cầu thang xuống. Khi đưa Hải Đăng vào cấp cứu, do mất nhiều máu nên bệnh viện muốn người nhà đến thử máu để truyền ngay cho cháu bé, mới nghe đến vậy, Thu bỗng thấy trời đất bỗng quay cuồng và tối sầm ngay trước mặt, khi mở mắt ra cô thấy ông Minh và Hải Kim đang ở bên cạnh mình.
Biết tin Hải Đăng gặp nạn, mọi người đều vào ngay trong viện xin thử máu, dù là bố mẹ đẻ nhưng cả Thu và ông Minh đều không trùng nhóm máu. Trong lúc nguy cấp, rất may có cậu Đạt lái xe cùng nhóm máu nên việc truyền máu được tiến hành ngay sau đó.
Kể từ hôm Hải Đăng xuất viện, thái độ của ông Minh dần thay đổi, ông không còn ân cần chăm sóc mấy mẹ con như trước, ngược lại ông luôn nhìn Thu bằng ánh mắt dò xét. Nhiều đêm tỉnh giấc, Thu ngạc nhiên vì có mùi thuốc lá, cô xuống dưới nhà thấy ông Minh đang trầm ngâm bên điếu thuốc, đây là điều lạ vì ông Minh đã bỏ thuốc từ rất lâu. Đoán có chuyện chẳng lành, Thu gặng hỏi mà ông Minh không hé nửa lời. Có lẽ ông thấy hối hận vì không nghe lời các con, câu ca “tò vò mà nuôi con nhện…” khiến ông nghẹn đắng trong lòng.
Không nói với mẹ con Thu, ông Minh lặng lẽ đạp xe về quê bên Từ Sơn, ở đó vẫn còn nhà thờ họ và mảnh vườn hương hỏa do cha ông để lại. Từ khi có thông tin tách tỉnh, quê ông sẽ thuộc tỉnh Bắc Ninh, đất đai lại rục rịch tăng giá. Ông Minh thuê người dọn dẹp sân vườn, quét vôi lại gian từ đường, thắp hương kính cáo tổ tiên, sau đó ông mua chiếc phản con kê ngay góc trái của nếp nhà thờ tổ. Mặc cho hai mẹ con Thu níu kéo, ông Minh quyết trở về sống nốt phần đời còn lại tại nơi chôn nhau cắt rốn.
*****
Khi bình tâm lại, Thu cũng không dám chắc thằng Hải Đăng có phải là con ông Minh hay không. Cô nhớ lại hồi đó, trước khi quen ông Minh ít lâu, trong một lần bê xong các thùng bia Vạn Lực vào trong nhà, thằng Liên Xô đã xin mẹ đi xem phim tại Fafilm ở Ngã Tư Sở. Tối hôm đó Hải Kim còn bé nên đi ngủ sớm, Thu đã nướng mấy con mực và ngồi uống bia với cậu Đạt lái xe, hai chị em uống hơn chục chai bia, lúc đó cả hai bắt đầu ngà ngà say. Thằng Liên Xô quen tính lêu lổng, đi xem phim nhưng nửa đêm không thấy mò về, khi Thu và Đạt uống xong, chính Thu không hiểu tại sao mình lại chủ động trước…người thiếu phụ lâu ngày vắng bóng đàn ông, còn Đạt khi đó cũng gần 30 nhưng chưa có gia đình. Cả hai đã quấn lấy nhau cuồng nhiệt và đam mê, sau đó Thu và Đặt ôm nhau ngủ dưới nền nhà đến khi trời gần sáng, Đạt mặc quần áo ra xe chui vào ca bin ngủ tiếp còn Thu cũng đi tắm cho tỉnh táo.
Sự việc tưởng chừng đã chìm vào quên lãng, khi ông Minh về sống chung với mẹ con Thu, cậu Đạt lái xe sau đó cũng lập gia đình, vậy mà việc Hải Đăng vào viện là nguyên nhân cho mọi thứ tan vỡ. Mải đắm mình trong suy nghĩ, Thu không nghe thấy tiếng đứa cháu nội đang khóc vì tỉnh giấc, có lẽ chính tiếng điện thoại để bàn réo vang là nguyên nhân khiến cháu bé giật mình. Thu bế cháu dỗ dành và nhấc điện thoại lên rồi dập xuống để ngắt tiếng chuông đang đổ từng hồi dài.
Tiếng nhạc phát ra từ chiếc đài cát sét nghe thật não nề;
"Ngoài hiên mưa rơi rơi,
Lòng ai như chơi vơi
Người ơi nước mắt hoen mi rồi
Đừng khóc trong đêm mưa,
Đừng than trong câu ca...
Buồn ơi trong đêm thâu,
Ôm ấp giùm ta nhé
Người em thương mưa ngâu
Hay khóc sầu nhân thế
Tình ta đêm về,
Có ấm từng cơn mơ em chưa... "
Tiếng chuông điện thoại lại reo vang......
 
Tống Giang

Tống Giang

Thường Dân
Joined
4 April 2019
Bài viết
15
Reaction score
0
Phần 12

Từ ngày chuyển về phố Lê Đại Hành, cuộc sống của bà Thu cũng dễ chịu hơn hẳn, không còn cảnh thức khuya, dậy sớm lo bán hàng buổi sáng nữa. Ngôi nhà có ngõ rộng lại gần với Sở xây dựng và nhiều văn phòng nên bà Thu mở quán café ngay tại tầng một. Nếu không có gì thay đổi, cuối năm bà sẽ đứng ra tổ chức đám cưới cho cậu con trai thứ hai. Hải Kim sau khi ra trường xin về dạy học tại một trường tiểu học có tiếng của Thủ đô, con dâu tương lai của bà Thu cũng là cô giáo đồng nghiệp. Bà Thu cũng tự hào nhất về cậu út Hải Đăng, bây giờ là sinh viên đại học Ngoại thương, dạo này cu cậu bận làm tình nguyện viên phục vụ cho đại lễ kỉ niệm ngàn năm Thăng Long – Hà Nội nên đi suốt ngày.
Sáng nào cậu con lớn cũng lái xe ô tô chở hai đứa con tới trường Vân Hồ ngay gần nhà bà nội học, đến trưa hai chị em lại dắt nhau về bà ăn cơm. Sáng nay bà Thu đi tập thể dục ở công viên về, vừa dựng xe đã thấy Liên Xô bước tới, nhìn thấy con trai ngập ngừng như muốn nói điều gì, bà Thu mở cửa để hai mẹ con vào trong nhà.
Liên Xô khẽ hỏi bà Thu;
Mẹ có nhớ cô Liên ngày trước ở ngõ nhà Dầu không?
Mẹ lạ gì, mẹ và cô Liên‎ học cùng nhau từ lớp vỡ lòng đến tận cấp 3, nói đến vậy bà Thu vội tránh đi và hỏi con trai;
thế có chuyện gì vậy con?
Liên Xô bèn rút trong túi áo ra một phong thư có đề tên người gửi là Hoàng Văn Thịnh, nhìn thấy lá thư, bà Thu cảm thấy choáng váng bèn ngồi xuống mép ghế. Liên Xô nói tiếp; cô Liên làm việc trong Vũng Tàu, đợt trước có đem theo bức thư này ra cho mẹ, nhưng vì mẹ đã chuyển về đây nên cô ghé cửa hàng của vợ chồng con để nhờ đưa tới tay mẹ. Cô Liên có nói đợt tới thu xếp được thời gian, cô sẽ gọi điện và hẹn gặp mẹ có việc. Liên Xô định hỏi mẹ mình nhưng lại thôi, có vẻ như anh con trai lớn đoán ra được điều gì đó.
Cậu con lớn của bà Thu đánh xe về cửa hàng từ lâu, bà vẫn ngồi thẫn thờ bên cạnh bức thư để trên bàn, có những việc tưởng chìm dần vào dĩ vãng, bỗng một ngày nó hiện về khiến bao kí ức buồn tủi lại ùa đến như mới ngày nào. Thời gian thấm thoắt cũng đã 36 năm trôi qua, kể từ ngày bà Thu ngóng theo đoàn tàu liên vận quốc tế chạy qua cầu Long Biên. Nếu không có mấy người ghé vào quán, có lẽ bà Thu vẫn chìm trong dòng hoài niệm đầy day dứt. Cất bức thư vào ngăn kéo, bà Thu đứng lên pha café theo yêu cầu của khách, cả ngày hôm đó bà Thu cảm thấy mình như đi trên mây.
Thời tiết mới chớm Thu nên vẫn còn nắng oi ả, cuối giờ chiều cậu con trai lớn đến đón hai đứa con về, cũng là lúc bà Thu đóng cửa hàng sớm, hai cậu con trai chắc tối nay lại về muộn như mọi khi. Chỉ còn lại một mình, bà Thu run run bóc lá thư ra đọc, nét chữ gần 40 năm nhưng bà vẫn nhận ra. Bà Thu lặng lẽ đọc lá thư dài tới 8 trang giấy, từng dòng chữ trong thư như những mũi kim xuyên thấu tâm can của bà, những giọt nước mắt chảy dài trên khuôn mặt khi trong thư ông Thịnh nhắc tới con búp bê mà ông đã gửi về cho bà cùng bức thư, tất cả đều không đến tay người nhận.
Cuối thư ông Thịnh có hẹn, cuối năm ông sẽ bay ra Hà Nội để gặp gỡ bà vì còn nhiều chuyện mà bức thư không thể nói hết được. Cuốn sổ tay mà ông Thịnh đã viết lưu bút khổ thơ của Hàn Mặc Tử khi xưa , bà Thu đã đốt từ lâu rồi vì uất hận, nhưng nét chữ hôm nay khiến bà nhớ về khổ thơ định mệnh đó;
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
*
* *
Chuyến bay của VNA đã đáp xuống sân bay Frankfurt, bước ra cửa ông Thịnh nhìn thấy con gái Bạch Dương tới đón mình. Đích thân ông Wolfgang Schön là chồng của vợ cũ tự tay lái xe đưa ông Thịnh về trung tâm Frankfurt am Main, mặc dù con gái và vợ cũ muốn ông Thịnh về nhà họ ở, nhưng ông vẫn quyết định chọn thuê khách sạn ngay gần Römerberg, một trong những quảng trường nổi tiếng nhất ở đó. Sở dĩ ông chọn địa điểm này vì nó gần Nhà thờ lớn Frankfurt, nơi sẽ cử hành hôn lễ cho con gái Bạch Dương của ông với một kĩ sư người Đức. Bạch Dương con gái ông sau khi tốt nghiệp đại học đã vào làm việc tại ngân hàng Deutsche_Bank. Bữa tối chiêu đãi ông Thịnh được vợ cũ cùng con gái và con rể tổ chức tại một nhà hàng truyền thống trong vùng.
Trong bữa ăn, vợ cũ có tham khảo‎ ý kiến ông Thịnh;
Theo truyền thông, bố cô dâu sẽ dắt tay con vào thánh đường làm lễ, tuy không nói ra nhưng Bạch Dương muốn được cả hai ông bố cùng đưa mình tới bàn thờ Chúa, vậy ‎ anh thấy thế nào?.
Nghe bà Hoài nói vậy, ông Thịnh liếc nhìn sang ông Wolfgang Schön rồi nói với vợ cũ;
Tôi sẽ dắt tay con gái đi ½ chặng đường trong nhà thờ, sau đó bố dượng con bé sẽ dắt tiếp đoạn đường còn lại. Nghe ông Thịnh nói vậy, bà Hoài quay sang dịch lại nội dung câu chuyện cho chồng mình nghe, ông Wolfgang Schön đã không kìm được nỗi xúc động vội đứng lên ôm ông Thịnh vào lòng luôn miệng nói cảm ơn.
Đám cưới của Bạch Dương diễn ra suôn sẻ, cả hai ông bố đều rơi lệ, những giọt nước mắt hạnh phúc trong ngày vui của con gái. Dù được gia đình vợ cũ và con gái mời ở lại chơi, nhưng ông Thịnh vẫn quay về Việt Nam ngay sau lễ cưới một ngày, ông được con rể là Manuel Neuer lái xe đưa ra sân bay đáp chuyến về Việt Nam, tận dụng thời gian nghỉ phép năm, ông Thịnh muốn thực hiện di nguyện cuối cùng của cha mẹ mình khi còn sống, ông sẽ đưa di cốt của các cụ về quê tại Hải Dương để an táng và tìm lại giọt máu rơi của mình sau gần bốn thập kỉ.
Trước khi sang Đức, ông nhờ một đồng nghiệp làm cùng cơ quan trao cho người yêu thuở nào một bức thư, người này chính là bạn học ngày xưa của bà Thu.
****
Hà Nội bắt đầu đón cơn gió mùa đông bắc đầu tiên, tiết trời se se lạnh khiến ai cũng vội vàng hơn ngày thường, từng đợt gió thổi khiến mặt nước Hồ Tây nổi sóng. Tại chùa Kim Liên, sau khi dâng hoa cũng Phật tại gian tam bảo, bà Thu lặng lẽ ra chiếc ghế đá kê ngay ngoài sân chùa ngồi đợi. Khi chiếc taxi đỗ gần cổng chùa, bà thấy rõ người tình một thuở từ trên xe bước xuống. Ngày chia tay cả hai còn rất trẻ, khi gặp lại mái tóc đều pha sương.
Ông Thịnh và bà Thu đều bối rối nhìn nhau trong giây phút gặp mặt, sở dĩ bà hẹn gặp ông Thịnh tại chùa Kim Liên, vì chính tại đây, chàng sinh viên năm nào đã thề non hẹn biển với cô nữ sinh trung học là bà.
Thời gian như ngừng trôi nơi cửa Phật thanh tịnh, bằng một giọng nhẹ nhàng nhưng chất chứa đầy cay đắng, bà Thu chậm rãi kể cho ông Thịnh nghe những gì mà bản thân và gia đình bà đã trải qua vào thời gian đó.
Giai đoạn tủi nhục và khốn khổ như một thước phim quay chậm dần hiện về qua từng câu nói, bà Thu ngừng kể đã lâu mà ông Thịnh vẫn lặng người, ông tháo kính ra khỏi mắt để lau những hơi nước làm mờ đi tầm nhìn.
Nhìn ánh nắng cũng dần tắt, bà Thu nói với ông Thịnh;
Người trí thức như các ông rất hèn, luôn đổ tại hoàn cảnh mà không dám đối mặt với thực tế. Ông cứ nghĩ kĩ xem; thằng Liên Xô sẽ cảm thấy thế nào khi thấy ông đến nhận cha con sau từng đó năm, gia phả nhà ông lẫy lừng toàn người tài cao học rộng, thằng Liên Xô tài hèn sức mọn sao dám chen vào đó được.
Bỏ mặc ông Thịnh ngồi lại sân chùa, bà Thu đạp xe về nhà lo cơm tối cho mấy đứa con và cháu của mình. Bóng bà khuất dần sau làn sương khói bốc lên từ Hồ Tây lộng gió.
*
**
Ở tuổi 80 nhưng cụ Minh vẫn còn khỏe mạnh minh mẫn, hàng ngày cụ tự mình lau dọn mấy gian từ đường rồi chống gậy đi chơi quanh làng, xã Đình Bảng quê hương cụ có truyền thống cách mạng từ xa xưa, đội thiếu nhiên du kích xã Đình Bảng cũng được đi vào sách văn học. Tết này con cháu họ mạc và dân làng sẽ tổ chức lễ mừng thượng thọ cho các cụ 80, cụ Minh còn vinh dự nhận huy hiệu 55 năm tuổi Đảng, theo lệ cũ của làng xã, cỗ khao không thể thiếu món thịt chuột đồng, món đặc sản nức tiếng quanh vùng Từ Sơn này.
Cụ Minh chống gậy từ nhà văn hóa thôn trở về, nhìn thấy cánh cổng mở toang, bước vào trong sân, cụ thấy một chiếc xe máy biển 29… nghe có tiếng người cháu họ đang nói chuyện với ai trong gian từ đường. Linh tính như mách bảo điều gì, cụ chống gậy bước gấp gáp tới bậc thềm tam cấp, trời đêm qua có mưa, nền sân gạch có rêu trơn trượt khiến cụ Minh mất thăng bằng….
 
Tống Giang

Tống Giang

Thường Dân
Joined
4 April 2019
Bài viết
15
Reaction score
0
Phần CUỐI
Mới sáng sớm ông Thịnh đã có mặt tại trại giam Gia Trung của tỉnh Gia Lai, sau khi làm thủ tục thăm phạm nhân, ông lặng lẽ ngồi đợi trong căn phòng rộng, trong phòng đã có nhiều gia đình cũng ngồi chờ như ông. Bà Hoàn vợ ông, sau nhiều năm lẩn trốn đã bị bắt trong một vụ lừa đảo lớn khác tại Trà Vinh. Tòa án đã tuyên phạt bà Hoàn mức án tù chung thân với các tội danh đã phạm phải, vợ ông mới chấp hành hình phạt được 8 năm, vậy nên ngày hoàn lương để trở về còn rất xa.
Đúng 8 giờ, những phạm nhân có người nhà đến thăm nuôi xuất hiện, ông Thịnh ngồi đối diện với vợ mình trong một tâm trạng khó tả, ông nói với vợ;
Còn vài tháng nữa tôi nhận quyết định nghỉ hưu, tôi sẽ về ngoài Bắc sống nên không vào thăm bà thường xuyên được. Vợ ông Thịnh gật đầu vẻ cam chịu, dù sao bà cũng là người đã gây ra mọi chuyện. Ông Thịnh nói tiếp; tôi rao bán căn nhà ở quận 2, số tiền bán nhà tôi sẽ nộp cho tòa án để khắc phục một phần hậu quả mà bà đã gây ra, tôi hy vọng việc đó là cơ sở để bà đượcxem xét giảm án trong thời gian tới, đó là tất cả những gì tôi có thể giúp bà. Bà Hoàn miệng lí nhí cảm ơn chồng mà nước mắt tuôn rơi.
Ông Thịnh mở kẹp file lấy ra một tờ giấy đưa cho vợ và nói;
Tôi muốn xin bà chữ kí vào đơn li hôn, sau hôm nay chúng ta đường ai nấy đi, nghe chồng nói vậy bà Hoàn im lặng cầm bút kí vào lá đơn vì bà biết rõ việc này sớm muộn gì cũng sẽ đến. Thời gian thăm thân chưa hết nhưng vợ chồng ông Thịnh đã đứng lên, mỗi người đi về một hướng. Đây là lần cuối ông Thịnh gặp vợ mình, dù sao mảnh đất phương Nam cũng không còn gì để ông phải lưu luyến.
*****
Vợ chồng cậu con thứ hai đi làm từ sớm, Bà Thu đưa cháu đi ăn sáng rồi dắt sang nhà trẻ ngay gần đó, khi quay về bà ghé mua bát phở cho cậu con út, hôm nay Hải Đăng đi phỏng vấn xin việc tại một công ty lớn có vốn FDI nên cả hai mẹ con đều rất hồi hộp. Đợi con trai ra khỏi nhà, bà Thu cũng chuẩn bị lên phố có chút việc.
Tiết trời sang xuân nhưng vẫn hơi se lạnh, mặc thêm chiếc áo len mỏng bà Thu vẫy xe ôm chở lên phố Hàng Quạt như đã hẹn. Ngồi trong một quán cafe nhỏ, ông Thịnh đưa cho bà Thu một cốc nước màu nâu vàng song sánh, ông nói;
Đây là nước nấm Linh Chi rất tốt cho sức khỏe, bà uống đi.
Vừa uống từng ngụm nước bà Thu vừa khẽ khàng nói;
Tôi biết ông muốn bù đắp cho thằng Liên Xô, nhưng có những thứ đã mất đi không thể bù đắp được. Ông không thể xuất hiện sau 40 năm rồi nói với nó về tình cảm cha con, thứ mà nó chưa bao giờ có được trong cuộc đời.
Việc ông chuyển ra ngoài Bắc sinh sống cũng không thay đổi được điều gì, mẹ con tôi đã quen và hài lòng với cuộc sống hiện nay rồi. Ngồi nghe bà Thu nói, ông Thịnh chỉ biết im lặng để cảm nhận, đúng là ông không thể bù đắp cho tuổi thơ bị đánh mất của con trai nhưng ông vẫn muốn làm một điều gì đó dù muộn còn hơn không.
Ông Thịnh rụt rè đề nghị;
Tôi biết mình không xứng đáng nhận con trong thời điểm hiện nay, việc tôi đề cập cũng chỉ muốn sau này bà và nó thấu hiểu cho hoàn cảnh của tôi vào thời điểm đó, thoáng chút bối rối, ông Thịnh khẽ thở dài, có lẽ bà Thu nói đúng phần nào về con người ông. Ở Liên Xô khi xưa, ông đã dần quên lãng người mình yêu nơi quê nhà và đắm say với mối tình tuyệt đẹp với bà Hoài, hoàn cảnh xét cho cùng chỉ là lí do để biện minh cho bản thân mà thôi.
Bà Thu nhìn thẳng vào mắt ông Thịnh sau cặp kính cận rồi nói;
Hôm nay ngày rằm, tôi mua mua bó hoa rồi lên chùa thắp hương, lần sau ông không phải hẹn hò khách sáo, nếu muốn gặp tôi, ông hãy đến công viên Thống Nhất, sáng nào tôi cũng tập thể dục ngay cổng chính đi vào.
Bà Thu đi rồi, ông Thịnh vẫn ngồi ưu tư bên chén trà đã nguội tanh.
*
**
Cụ Minh được con gái dìu ra ngồi bên hiên nhà sưởi nắng, con gái cụ từ ngày về hưu thường xuyên về chăm sóc bố già. Tranh thủ lúc cụ chưa ngủ gà gật, cô con gái bèn nói;
Con nghĩ kĩ rồi, việc cậu Hải Đăng có phải là giọt máu trong gia đình mình hay không cần phải làm xét nghiệm ADN. Nếu bố đồng ý, con sẽ tiến hành luôn nhé, cụ Minh có vẻ đăm chiêu suy nghĩ. Từ sau lần bị ngã, cụ hạn chế đi lại nhiều do sức khỏe ngày một kém.
Con gái cụ nói tiếp; mấy đứa con gái của con đang tuổi yêu đương, sự đời trớ trêu, nếu không xét nghiệm nhận huyết thống, biết đâu lại xảy ra cơ sự chú yêu nhầm cháu thì đúng là vô phúc mục mả. Nghe con gái nói vậy, cụ Minh gật đầu đồng ý. Chỉ đợi có vậy, bà con gái lấy chiếc kéo cắt một nhúm tóc bạc và bấm thêm mấy chiếc móng tay của cụ cho vào túi nylon. Ánh nắng sớm chiếu vào thân hình già nua của cụ già đã bước sang tuổi 84, như thường lệ, cụ Minh lại ngủ gà gật bên hiên nhà, thời gian như lắng đọng và ngừng trôi trong khung cảnh trầm mặc này.
Nhờ sự hợp tác của Hải Đăng nên sau đó ít lâu con gái cụ đã có kết quả xét nghiệm ADN. Tay cụ Minh run run vì xúc động khi cầm tờ kết quả xét nghiệm AND do con gái trao cho, cuối cùng cụ đã trút bỏ được gánh nặng mang trong lòng suốt 15 năm qua. Những giọt nước mắt chảy dài trên khuôn mặt già nua của cụ, cụ ân hận vì đã vắng mặt suốt bao năm trong cuộc đời con trai mình, đúng vào giai đoạn đứa trẻ cần có sự dìu dắt của người cha.
Bốn năm trước, đền Đô nơi thờ tám vị vua triều L‎í cũng được nhiều khách trong và ngoài nước đến thăm viếng vì nó nằm trong chuỗi sự kiện kỉ niệm ngàn năm Thăng Long – Hà Nội. Chính Hải Kim khi biết em trai hay dẫn đoàn về đền Đô tại Kim Bảng nên đã rủ em trai hỏi thăm nhà cụ Minh, Hải Đăng ngày đó còn bé nên không biết, Hải Kim tuy không phải con đẻ nhưng được cụ Minh kèm cặp trong việc học hành rất nhiều, chính vì trân trọng nghĩa cử đó nên Hải Kim vẫn muốn em trai mình tìm và nhận bố. Là người có tiếng trong vùng Kim Bảng, nên việc tìm nhà cụ Minh không quá khó với hai anh em.
Sau hơn chục năm xa cách, cuộc gặp mặt lại gặp tình huống bất ngờ, cụ Minh do bất cẩn đã ngã ngay bậc thềm nhà, chính hai an hem Hải Kim và Hải Đăng đã chạy ra bế cụ vào nhà. Ngày cụ dứt áo bỏ đi, Hải Đăng mới là thằng bé 4 tuổi còn bây giờ đã thành chàng sinh viên cao lớn. Nhìn Hải Đăng giống khi mình thủa còn thanh niên, cụ Minh bỗng thấy hối hận trong lòng, cụ nắm chặt tay Hải Đăng mà không nói lên lời.
Từ sau lần gặp mặt đó, hàng tháng Hải Đăng vẫn phi xe máy về thăm cụ Minh. Bà Thu biết việc con mình hay về Từ Sơn thăm cha cũng không nói gì. Khi nghe con trai thông báo kết quả xét nghiệm ADN cho thấy Hải Đăng cùng huyết thống với cụ Minh, bà Thu đã bật khóc, có lẽ giống như cụ Minh, bà đã trút bỏ được nỗi niềm sâu kín đè nặng tâm can suốt mười mấy năm qua.
Cụ Minh ra đi trong thanh thản sau đó vài tháng, bà Thu dắt con trai về chịu tang cha theo đúng đạo lý. Sau đám tang, con trai và con gái cụ Minh cũng tiếp bà Thu chu đáo như với bậc bề trên, có lẽ thời gian đủ dài làm con người ta bao dung hơn và không còn thành kiến như trước kia.
Sau nhiều tuần cân nhắc, bà Thu quyết định tổ chức buổi gặp mặt giữa ông Thịnh và con trai của mình là Liên Xô. Việc cho hai cha con gặp nhau, có lẽ xuất phát từ chính việc nhận cha của cậu út.
Bà Thu mở điện thoại tìm số của ông Thịnh và bấm máy gọi.
Đầu bên kia tiếng nhạc chờ vang lên bài hát “ Đôi bờ” nổi tiếng của Nga;
"Đêm dài qua, dưới mưa rơi, em mong chờ anh tới
Cây cỏ hoa như nói nên lời em hạnh phúc nhất đời
Lòng em riêng biết có yêu anh, giữa tình đôi lứa ta,
Một dòng sông sóng nước long lanh, đôi bờ đâu cách xa.
Trên dòng sông, sóng đôi nhau, thiên nga đùa trên sóng
Bên bờ sông vai sánh vai nhau, đôi đôi bước theo dòng
Mình em riêng đứng ngóng trông anh, với tình yêu thiết tha
Một dòng sông sóng nước long lanh, đôi bờ đâu cách xa.
Đêm dần qua ánh ban mai đang lan tràn dâng tới.
Trên bờ sông soi bóng em dài, xa xa phía chân trời.
Mình em riêng thắm thiết yêu anh, với niềm tin thiết tha.
Một dòng sông sóng nước long lanh, đôi bờ đâu cách xa.
Mình em riêng thắm thiết yêu anh, với niềm tin thiết tha.
Một dòng sông sóng nước long lanh, đôi bờ đâu cách xa."
Hết.
 
Top Bottom