
Tống Giang
Thường Dân
- Joined
- 4 April 2019
- Bài viết
- 15
- Reaction score
- 0
Chương 1
Trời nhá nhem tối, các ngôi nhà trong xóm lao động le lói những ánh đèn dầu. Ông Phương mệt nhọc đạp chiếc xích lô về sát cửa nhà, thầy chồng về bà Dần vội nói; Thu mau ra lấy chậu nước cho bố rửa mặt rồi sắp cơm ra đi con. Nghe mẹ gọi, cô bé Thu vội bê chậu nước ra ngoài hè, ông Phương sau khi rửa mặt thì cởi áo và cúi xuống lấy khăn lau qua người cho mát. Dưới ngọn đèn Hoa Kỳ, ba con người bắt đầu bữa cơm tối của mình. Mâm cơm được đặt ngay xuống chiếc chiếu rách rải ngay giữa nhà, nhà nền đất nên vẫn mấp mô. Ngoài bát canh rau dền còn có một đĩa lạc rang mặn, riêng ông Phương có thêm cút rượu và một đĩa đậu phụ rán. Trong lúc hai mẹ con ăn cơm, ông Phương uống rượu và nhấm nháp mấy bìa đậu. Nhìn chồng đã uống đến chén thứ ba, bà Dần vội nói; Thôi để tôi xới bát cơm cho mình ăn nhé, uống vậy cũng đủ rồi. Thu vừa ăn vừa lấm lét nhìn bố như sợ sệt điều gì đó. Ông Phương uống thêm một chén rượu rồi mới bắt đầu ăn cơm, tiếng loa truyền thanh từ xa vọng lại báo tin quân chủ lực của ta đang thắng trận liên tiếp và sẽ giải phóng thành phố Huế trong nay mai. Khi chồng buông bát, bà Dần nhắc con bê mâm bát ra sau nhà để rửa.
Đợi chồng ngồi uống cốc nước xong, bà Dần mới rụt rè nói; Có chuyện này tôi muốn trao đổi nhưng mình phải bình tĩnh nhé. Chuyện gì vậy mình, ông Phương hỏi và bắt đầu có vẻ muốn đi ngủ. Dù sao cả ngày hôm nay ông phải chở gạch vụn cho mấy người mua về xây nhà nên cũng khá mệt rồi. Ông đoán chắc, bà muốn xin cho con bé Thu đi dự liên hoan hay đi chơi cùng mấy đứa bạn. Ngập ngừng hồi lâu bà Dần mới nói nhỏ vì sợ nhà hàng xóm sát vách nghe thấy. Dù sao cả dãy nhà ở đây đều cách nhau bởi bức tường con kiến xây chung. Bà Dần khổ sở trình bày; tôi nhận thấy mấy tháng nay cứ đến kỳ của phụ nữ mà không thấy con Thu giặt và phơi khăn xô như mọi khi. Đoán có sự chẳng lành nên tôi đã tra hỏi, nó sợ ông đánh nên đã van xin tôi nói giúp. Vậy thằng nào đã hủ hóa với nó, ông Phương gằn giọng hỏi và như tỉnh hẳn rượu. Thu đứng nép sau tấm liếp phía sau nhà và chăm chú lắng nghe câu chuyện của bố mẹ.
Bà Dần hạ giọng nói nhỏ cho chồng:
-Thằng Thịnh con nhà ông bà giáoThanh.
Nghe đến đó ông Phương giật mình hỏi lại vợ; Bà có chắc chắn không, thằng bé đó đi Liên Xô từ năm ngoái rồi mà.Tôi hỏi đi hỏi lại nhiều lần rồi, con mình nó kể lại hết. Ông Phương lẩm bẩm; thôi chết rồi, nó bây giờ ở mãi xa vậy biết làm sao bây giờ. Bà Dần rớm nước mắt nói; thôi con dại cái mang, chuyện đã đến nước này sớm muộn gì cũng sẽ ầm ĩ cả xóm, ngày mai tôi đành muối mặt sang nói chuyện với người ta.
Nghe vợ nói vậy ông Phương chỉ nói một câu; Tùy hai mẹ con bà tự giải quyết, thôi coi như tôi không có đứa con hư hỏng mất nết như nó. Nói xong ông Phương đi ra ngoài cửa và leo lên xích lô để ngủ.
Cả gia đình sinh sống trong căn nhà chưa đến 9 mét vuông. Mùa đông hai vợ chồng rải chiếu nằm dưới đất và nhường chiếc phản duy nhất cho con bé Thu, còn mùa hè nóng bức ông Phương ngủ ngay trên chiếc xích lô để ngoài cửa. Chưa đầy 10 phút bà Dần đã thấy tiếng chồng gáy rồi, sợ chồng nằm ngoài bị muỗi đốt, bà Dần đem chiếc màn một ra mặc phía trên cho chồng. Lúc này trong nhà đèn dầu cũng đang le lói vì sắp cạn dầu. bà Dần rải chiếu nằm dưới đất cũng không sao chợp mắt được. Bà biết trước mắt là cả một chặng đường chông gai, riêng việc đối mặt với lời ra tiếng vào của dư luận, rồi việc tổ dân phố họp kiểm điểm, nhà trường thi hành kỉ luật…Chỉ nghĩ đến từng đó thôi cũng khiến trái tim của người mẹ như nghẹn lại.
Nằm trên phản cô bé Thu khóc thổn thức vì thương cha mẹ, tiếng ngáy không đều sau một ngày lao động nặng nhọc của bố, tiếng thở dài xót xa của mẹ khiến cho Thu cảm thấy day dứt và ân hận. Dù nói gì đi nữa, mọi việc cũng đã quá muộn để sửa chữa. Cái thai mà Thu cố giấu đi cũng không thể giấu được nữa, việc nạo phá thai ở tầm này không bệnh viện nào dám thực hiện. Trong đêm khuya tĩnh mịch, Thu lại nhớ đến Thịnh, người mà cô đã trao sự trong trắng của đời con gái cho anh. Không biết giờ này ở bên Liên Xô rộng lớn, anh có nhớ đến những gì mà mình hứa hẹn không. Cả xóm lao động chìm dần vào giấc ngủ, không gian vô cùng tĩnh lặng. Dù đang trong thời kỳ chiến tranh, nhưng kể từ khi người Mỹ rút về nước theo thỏa thuận đã kí tại Paris năm 1973, mọi người không còn phải lo lắng về những trận bom như mấy năm về trước.
---------
Mới gần 6 giờ sáng mà công viên Thống Nhất đã đông nghẹt người đi tập thể dục, từng tốp người thuộc đủ các lứa tuổi đang thong thả đi bộ quanh hồ bảy mẫu. Đám thanh niên trẻ khỏe thì chạy với tốc độ trung bình, ở nhiều khu vực khác lại có nhiều các mẹ đang tập thể dục theo tiếng nhạc phát ra từ chiếc đài cát sét hoặc tiếng hô của huấn luyện viên. Ngồi ở ghế đá ngay gần mép hồ, ông Thịnh lặng lẽ quan sát một nhóm các phụ nữ trung niên đang nhảy theo điệu rumba khá sôi động. Ánh mắt của ông chăm chú quan sát từng động tác của người phụ nữ xấp xỉ 60 nhưng vẫn đẹp và nhanh nhẹn. Khi đồng hồ trên tay ông Thịnh chỉ sang đúng 7 giờ 15 phút , các cụ bà nghỉ tập và tỏa ra các hướng.
Ông Thịnh lập cập mở chiếc bình ủ mang theo từ sáng và rót ra một cốc nước còn ấm. Khi bà Thu, người phụ nữ mà ông Thịnh chăm chú dõi theo, ông đưa cốc nước và nói: Bà uống cốc nấm Linh chi cho ấm, bà Thu đỡ cốc nước và ngồi xuống uống từng ngụm nhỏ, ông Thịnh đưa cho bà chiếc khăn tay mới tinh để lau mồ hôi trên mặt.
Ông Thịnh khẽ hỏi:
-Sáng nay tôi muốn mời bà đi lên phố cổ chơi được không…?
Khẽ lắc đầu bà Thu nói luôn mà không cần suy nghĩ:
-Không được rồi, các cháu tôi đang nghỉ hè nên tôi phải về chăm chúng nó. Thế chuyện kia bà đã nói gì chưa. Bà Thu lắc đầu; Thôi cứ để mọi việc như nó vẫn vậy ông nhé, không để ông Thịnh nói tiếp, bà Thu đứng lên và dắt chiếc xe đạp hướng ra phía cổng công viên. Ông Thịnh nhìn theo cho đến khi không còn thấy bóng của bà Thu, ông đứng dậy bước ra cổng, để bắt taxi về tận bên khu đô thị Ecopark. Ngồi trên xe trở về nhà, ông ngậm ngùi nhớ lại một thời đã qua, ngày đó ông là chàng sinh viên năm thứ Nhất của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, còn bà Thu mới chỉ là cô bé học sinh lớp 10.
Chính ông trước khi sang Liên Xô du học đã chép tặng cô bé Thu bài thơ *“Đây thôn Vĩ Dạ”*của nhà thơ Hàn Mạc Tử vào sổ tay thay lời lưu bút với những câu đầy da diết;
Trời nhá nhem tối, các ngôi nhà trong xóm lao động le lói những ánh đèn dầu. Ông Phương mệt nhọc đạp chiếc xích lô về sát cửa nhà, thầy chồng về bà Dần vội nói; Thu mau ra lấy chậu nước cho bố rửa mặt rồi sắp cơm ra đi con. Nghe mẹ gọi, cô bé Thu vội bê chậu nước ra ngoài hè, ông Phương sau khi rửa mặt thì cởi áo và cúi xuống lấy khăn lau qua người cho mát. Dưới ngọn đèn Hoa Kỳ, ba con người bắt đầu bữa cơm tối của mình. Mâm cơm được đặt ngay xuống chiếc chiếu rách rải ngay giữa nhà, nhà nền đất nên vẫn mấp mô. Ngoài bát canh rau dền còn có một đĩa lạc rang mặn, riêng ông Phương có thêm cút rượu và một đĩa đậu phụ rán. Trong lúc hai mẹ con ăn cơm, ông Phương uống rượu và nhấm nháp mấy bìa đậu. Nhìn chồng đã uống đến chén thứ ba, bà Dần vội nói; Thôi để tôi xới bát cơm cho mình ăn nhé, uống vậy cũng đủ rồi. Thu vừa ăn vừa lấm lét nhìn bố như sợ sệt điều gì đó. Ông Phương uống thêm một chén rượu rồi mới bắt đầu ăn cơm, tiếng loa truyền thanh từ xa vọng lại báo tin quân chủ lực của ta đang thắng trận liên tiếp và sẽ giải phóng thành phố Huế trong nay mai. Khi chồng buông bát, bà Dần nhắc con bê mâm bát ra sau nhà để rửa.
Đợi chồng ngồi uống cốc nước xong, bà Dần mới rụt rè nói; Có chuyện này tôi muốn trao đổi nhưng mình phải bình tĩnh nhé. Chuyện gì vậy mình, ông Phương hỏi và bắt đầu có vẻ muốn đi ngủ. Dù sao cả ngày hôm nay ông phải chở gạch vụn cho mấy người mua về xây nhà nên cũng khá mệt rồi. Ông đoán chắc, bà muốn xin cho con bé Thu đi dự liên hoan hay đi chơi cùng mấy đứa bạn. Ngập ngừng hồi lâu bà Dần mới nói nhỏ vì sợ nhà hàng xóm sát vách nghe thấy. Dù sao cả dãy nhà ở đây đều cách nhau bởi bức tường con kiến xây chung. Bà Dần khổ sở trình bày; tôi nhận thấy mấy tháng nay cứ đến kỳ của phụ nữ mà không thấy con Thu giặt và phơi khăn xô như mọi khi. Đoán có sự chẳng lành nên tôi đã tra hỏi, nó sợ ông đánh nên đã van xin tôi nói giúp. Vậy thằng nào đã hủ hóa với nó, ông Phương gằn giọng hỏi và như tỉnh hẳn rượu. Thu đứng nép sau tấm liếp phía sau nhà và chăm chú lắng nghe câu chuyện của bố mẹ.
Bà Dần hạ giọng nói nhỏ cho chồng:
-Thằng Thịnh con nhà ông bà giáoThanh.
Nghe đến đó ông Phương giật mình hỏi lại vợ; Bà có chắc chắn không, thằng bé đó đi Liên Xô từ năm ngoái rồi mà.Tôi hỏi đi hỏi lại nhiều lần rồi, con mình nó kể lại hết. Ông Phương lẩm bẩm; thôi chết rồi, nó bây giờ ở mãi xa vậy biết làm sao bây giờ. Bà Dần rớm nước mắt nói; thôi con dại cái mang, chuyện đã đến nước này sớm muộn gì cũng sẽ ầm ĩ cả xóm, ngày mai tôi đành muối mặt sang nói chuyện với người ta.
Nghe vợ nói vậy ông Phương chỉ nói một câu; Tùy hai mẹ con bà tự giải quyết, thôi coi như tôi không có đứa con hư hỏng mất nết như nó. Nói xong ông Phương đi ra ngoài cửa và leo lên xích lô để ngủ.
Cả gia đình sinh sống trong căn nhà chưa đến 9 mét vuông. Mùa đông hai vợ chồng rải chiếu nằm dưới đất và nhường chiếc phản duy nhất cho con bé Thu, còn mùa hè nóng bức ông Phương ngủ ngay trên chiếc xích lô để ngoài cửa. Chưa đầy 10 phút bà Dần đã thấy tiếng chồng gáy rồi, sợ chồng nằm ngoài bị muỗi đốt, bà Dần đem chiếc màn một ra mặc phía trên cho chồng. Lúc này trong nhà đèn dầu cũng đang le lói vì sắp cạn dầu. bà Dần rải chiếu nằm dưới đất cũng không sao chợp mắt được. Bà biết trước mắt là cả một chặng đường chông gai, riêng việc đối mặt với lời ra tiếng vào của dư luận, rồi việc tổ dân phố họp kiểm điểm, nhà trường thi hành kỉ luật…Chỉ nghĩ đến từng đó thôi cũng khiến trái tim của người mẹ như nghẹn lại.
Nằm trên phản cô bé Thu khóc thổn thức vì thương cha mẹ, tiếng ngáy không đều sau một ngày lao động nặng nhọc của bố, tiếng thở dài xót xa của mẹ khiến cho Thu cảm thấy day dứt và ân hận. Dù nói gì đi nữa, mọi việc cũng đã quá muộn để sửa chữa. Cái thai mà Thu cố giấu đi cũng không thể giấu được nữa, việc nạo phá thai ở tầm này không bệnh viện nào dám thực hiện. Trong đêm khuya tĩnh mịch, Thu lại nhớ đến Thịnh, người mà cô đã trao sự trong trắng của đời con gái cho anh. Không biết giờ này ở bên Liên Xô rộng lớn, anh có nhớ đến những gì mà mình hứa hẹn không. Cả xóm lao động chìm dần vào giấc ngủ, không gian vô cùng tĩnh lặng. Dù đang trong thời kỳ chiến tranh, nhưng kể từ khi người Mỹ rút về nước theo thỏa thuận đã kí tại Paris năm 1973, mọi người không còn phải lo lắng về những trận bom như mấy năm về trước.
---------
Mới gần 6 giờ sáng mà công viên Thống Nhất đã đông nghẹt người đi tập thể dục, từng tốp người thuộc đủ các lứa tuổi đang thong thả đi bộ quanh hồ bảy mẫu. Đám thanh niên trẻ khỏe thì chạy với tốc độ trung bình, ở nhiều khu vực khác lại có nhiều các mẹ đang tập thể dục theo tiếng nhạc phát ra từ chiếc đài cát sét hoặc tiếng hô của huấn luyện viên. Ngồi ở ghế đá ngay gần mép hồ, ông Thịnh lặng lẽ quan sát một nhóm các phụ nữ trung niên đang nhảy theo điệu rumba khá sôi động. Ánh mắt của ông chăm chú quan sát từng động tác của người phụ nữ xấp xỉ 60 nhưng vẫn đẹp và nhanh nhẹn. Khi đồng hồ trên tay ông Thịnh chỉ sang đúng 7 giờ 15 phút , các cụ bà nghỉ tập và tỏa ra các hướng.
Ông Thịnh lập cập mở chiếc bình ủ mang theo từ sáng và rót ra một cốc nước còn ấm. Khi bà Thu, người phụ nữ mà ông Thịnh chăm chú dõi theo, ông đưa cốc nước và nói: Bà uống cốc nấm Linh chi cho ấm, bà Thu đỡ cốc nước và ngồi xuống uống từng ngụm nhỏ, ông Thịnh đưa cho bà chiếc khăn tay mới tinh để lau mồ hôi trên mặt.
Ông Thịnh khẽ hỏi:
-Sáng nay tôi muốn mời bà đi lên phố cổ chơi được không…?
Khẽ lắc đầu bà Thu nói luôn mà không cần suy nghĩ:
-Không được rồi, các cháu tôi đang nghỉ hè nên tôi phải về chăm chúng nó. Thế chuyện kia bà đã nói gì chưa. Bà Thu lắc đầu; Thôi cứ để mọi việc như nó vẫn vậy ông nhé, không để ông Thịnh nói tiếp, bà Thu đứng lên và dắt chiếc xe đạp hướng ra phía cổng công viên. Ông Thịnh nhìn theo cho đến khi không còn thấy bóng của bà Thu, ông đứng dậy bước ra cổng, để bắt taxi về tận bên khu đô thị Ecopark. Ngồi trên xe trở về nhà, ông ngậm ngùi nhớ lại một thời đã qua, ngày đó ông là chàng sinh viên năm thứ Nhất của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, còn bà Thu mới chỉ là cô bé học sinh lớp 10.
Chính ông trước khi sang Liên Xô du học đã chép tặng cô bé Thu bài thơ *“Đây thôn Vĩ Dạ”*của nhà thơ Hàn Mạc Tử vào sổ tay thay lời lưu bút với những câu đầy da diết;
"Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?"
Vào một tối mùa đông năm 1974, khi chuyến tàu liên vận quốc tế chạy qua cầu Long Biên lên Đồng Đăng rồi qua Trung Quốc để từ đó đoàn du học sinh sang Liên Xô học tập, cuộc đời của đôi bạn trẻ chính thức rẽ sang hai hướng hoàn toàn khác nhau. Đúng 40 năm sau kể từ cuộc chia tay năm nào, họ mới có dịp gặp lại nhau trong một hoàn cảnh khá trớ trêu.Áo em trắng quá nhìn không ra...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?"
Last edited: